Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xã hội phương Tây qua Góc nhìn Phật giáo (佛教視角下的西方社會)

13/04/202308:25(Xem: 2052)
Xã hội phương Tây qua Góc nhìn Phật giáo (佛教視角下的西方社會)
phat tu tay phuong
Thượng Tọa Sangharakshita (Dennis Philip Edward Lingwood, 1925-2018, một tăng sĩ người Anh, giảng Pháp tại London năm 1971




Xã hội phương Tây
qua Góc nhìn Phật giáo

(佛教視角下的西方社會)

Tôn giáo

(宗教)

 

Về tôn giáo, tôi luôn chia sẻ rõ ràng đối với các thân hữu phương Tây rằng, tối hảo hơn hết là nên giữ truyền thống của chính mình. Trong số hàng triệu người có những cá nhân, giống như các bạn, ồ! những người này, theo tôi nghĩ rằng một số các bạn giống như những kẻ lập dị vào sau nửa thế kỷ 20, những thập niên 1960 – cảm thấy không biết xử trí thế nào về suy nghĩ của mình, một chút thái độ chống lại với hình thức hiện có, bao gồm cả tín ngưỡng tôn giáo phương tây phải không các bạn? Cứ thế, các bạn phiêu bạc khắp nơi, không chỗ cố định, dường như không có phương hướng, và cuối cùng các bạn tìm đến một số tư tưởng mới trong đạo Phật. Vì thế, nếu các bạn thực sự cảm thấy rằng đây là một điều hữu ích, một điều gì đó sẽ giúp ích cho các bạn, thì điều đó không có gì sai cả.

 

Giống như người Tây Tạng – hơn 99% người Tây Tạng là Phật giáo đồ, nhưng đồng thời, trong số người Tây Tạng cũng có người Hồi giáo, và tôi nghĩ một số người là tín đồ Cơ đốc giáo đã đến đây từ thế kỷ 21. Vì thế, điều này là khả thi. Trong số người phương Tây có nguồn gốc Do Thái giáo – Cơ đốc giáo và ở một mức độ nào đó là Hồi giáo – một số người trong số họ thấy rằng, truyền thống của họ không mấy hiệu quả và sự lựa chọn trở thành những người chẳng tin tôn giáo. Bởi vì tâm lý không ổn định, họ thấy trong giáo nghĩa đạo Phật có điều gì đó rất tốt cho việc huấn luyện tư duy, và họ quyết định vâng theo. Điều này là khả thi. Đây là một quyền lợi các nhân.

 

Giáo dục

(教育)

 

Nếu là một tín đồ Phật giáo, hay thậm chí một là một loại người nào đó, nhu cầu tinh thần chúng ta vẫn cần chủ nghĩa hiện thực. Do đó, phương pháp tiếp cận phi chủ nghĩa hiện thực gây ra thảm họa, vì thế chúng ta không thể xa rời hiện thực. Tôi nghĩ mục đích chân chính của sự giáo dục là giúp chúng ta thu hẹp khoảng cách biểu tượng và hiện thực. Nhiều cảm giác chẳng hiện thực sản sinh do khoảng cách giữa biểu tượng và hiện thực. Thực sự nhu cầu của giáo dục là giúp nhân loại phát triển trí tuệ. Mục đích của giáo dục chân chính là giúp tâm thức chúng ta phát triển trí tuệ, phát triển nhận thức lý tính, phát triển chủ nghĩa hiện thực. Mục đích của giáo dục chân chính là chúng ta nên thực tế về tất cả cuộc sống của chúng ta, tất cả mục tiêu sở hữu của chúng ta là bảo vệ chủ nghĩa hiện thực.  Ngay cả với những mục tiêu mang tính phá hoại của bọn khủng bố - để đạt được mục tiêu thì phương tiện của chúng phải hiện thực, nếu không thì có thể chúng sẽ chết từ lâu trước khi đạt được mục đích. Mọi hành động của con người đều phải hiện thực.

 

Hiện tại nguy cơ xảy ra sự bất ổn chính trị, khủng hoảng kinh tế. Có quá nhiều đầu cơ tích trữ hàng hóa, thậm chí không biết điều gì sẽ phát sinh, thế là giả trang sự tình thuận lợi. Đôi khi những người này họ biết chuyện gì sẽ phát sinh, nhưng họ lại cố ý trình bày một bức tranh rất khác lạ cho công chúng. Đó là vô đạo đức. Vì thế, tất cả đều là ngu muội và tham lam. Theo một số bằng hữu của tôi nói rằng, đây là một phần nguyên nhân dẫn đến nguy cơ khủng hoảng kinh tế thế giới. Nếu như mọi người nói lên sự thật một cách công khai, hãy minh bạch ngay từ đầu và công chúng sẽ không quá sốc khi thông báo cuối cùng được đưa ra. Lẽ ra ngay từ đầu họ nên làm rõ việc ấy. Nhưng bây giờ, mọi thứ thật khó khăn, phải không? Vì vậy, thái độ chúng ta tất yếu phải bảo vệ hiện thực toàn bộ cuộc sống. Như thế, ngoài ra trong quan hệ quốc tế, trong các vấn đề môi trường, trong bất kỳ lĩnh vực – về bất kỳ phương diện nào – nhu cầu chúng ta đều cần đến chủ nghĩa hiện thực.

 

Có một nền giáo dục hiện đại còn khiếm khuyết, đó là sự giáo dục về nhiệt tâm khơi nguồn từ bi, thắp sáng ánh dương trí tuệ. Nhưng hiện tại có một số tổ chức, một số trường đại học đã thực sự triển khai nghiên cứu phương diện này. Họ đã tiến hành cho các sinh viên thử nghiệm: Nếu như các học sinh, sinh viên mỗi ngày tập trung vào việc nghiên cứu và tham gia những bài thực tập thiền ngắn để huấn luyện tâm thức và tu tập Phép quán từ bi có công năng làm sinh khởi và nuôi dưỡng lòng từ bi trong mỗi chúng ta. Nguyên do như thế đấy là một phương diện.

 

Kiện khang

(健康)

 

So với các động vật và các hình dạng sinh mệnh khác, vận số chúng ta thật hạnh phúc, có được cơ thể con người, có được Chức năng của đại não phi thường (khởi động chuyển động, phối hợp vận động, nhiệt độ, chạm, nhìn, nghe, phán đoán, suy luận, giải quyết vấn đề, cảm xúc và học tập) – có được năng lực nuôi dưỡng những tình cảm vị tha vô tận, và khả năng khảo sát hiện thực tối hậu của chúng ta.

 

Bất kỳ chủng loại cơ thể sinh mạng nào, cũng đều không có được năng lực, chức năng của đại não phi thường như con người. Vì thế, thông thường chúng sinh hữu tình đều làm đầy tớ của ngu muội. Chỉ có đại não của nhân loại mới có khả năng nhận thức chỗ sai lầm của ngu muội. Vì thế, thân thể con người là vật quý báu, chúng ta phải bảo hộ sự sống này. Trong thời gian dài hàng nghìn năm, tất cả những gì chúng ta có thể làm đó là cầu nguyện các đấng thần minh gia hộ cho cuộc sống chúng ta đắc trường thọ. Nhưng thực tế bây giờ, có y học hiện đại và tập thể dục, bao gồm cả các bài tập yoga, đều có tác dụng bảo hộ thân thể quý giá của chúng ta, phải không?

 

Kinh tế

(經濟)

 

Tất nhiên, ở lĩnh vực này, học thức của tôi còn nông cạn. Thứ nhất, lý luận kinh tế học của Triết gia Karl Marx (1818-1883) – một điều rất hấp dẫn đối với tôi bởi lý luận về phân phối bình quân của cải. Đây là đạo đức và luân lý; tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản thì không bàn về điều này, chỉ nói về cách hưởng lợi. Vì thế, về mặt lý luận về kinh tế xã hội, tôi vẫn là người ngưỡng mộ chủ nghĩa Chủ nghĩa Marx.

 

Tại Các nước Liên Xô cũ, ở thời kỳ mới cho nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa - và các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác – danh xưng “Xã hội Chủ nghĩa” – được thực hiện – cuối cùng nền kinh tế của họ phải đối mặt với tình trạng đình trệ. Đây là sự thật. Vì thế, về mặt phát triển kinh tế, chủ nghĩa tư bản phương Tây có động lực phong phú hơn. Thời kỳ ông Đặng Tiểu Bình,  lãnh đạo tối cao của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từ năm 1978 đến năm 1992, Trung Quốc đành chấp nhận hy sinh thực tiễn về Chủ nghĩa Marx và tự nguyện theo đuổi kinh tế thị trường.

 

Hiện tại, không ai nghĩ có thể đỗ lỗi cho hệ thống tư bản chủ nghĩa về tất cả những khó khăn mà ngày nay Trung Quốc phải đối mặt. Tôi nghĩ rằng, một quốc gia tự do có thể theo con đường tư bản chủ nghĩa (không những có vấn đề này) nhưng (theo đó) cả hai đều cần một nền tư pháp độc lập và tự do báo chí. Nếu các phương tiện truyền thông tuân theo các nguyên tắc minh bạch, sau đó, các chính phủ được dân bầu phải chịu trách nhiệm. Vì thế, với chủ nghĩa tư bản, chúng ta cần những phương pháp để làm cho xã hội công bằng hơn.

 

Ngay lúc này, Trung Quốc chỉ có tư bản chủ nghĩa – không có tư pháp độc lập, không có tự do báo chí, bởi sự vô tâm, vô trách nhiệm. Nhà cầm quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc khống chế ngành tư pháp, đảng CSTQ khống chế nền kinh tế, những người kế nghiệp đảng CSTQ khống chế truyền thông báo chí. Đây là những nguyên nhân chính khiến nhà cầm quyền đảng cộng sản Trung Quốc gặp phải khó khăn hiện nay. Quan trường hũ bại nghiêm trọng, không có những biện pháp thích hợp để khống chế tệ nạn này. Người nghèo khổ vướng vào việc tham nhũng bị trừng phạt án tử hình, những người có chức vụ cao lại đứng ngoài vòng luật pháp. Đây là nguyên nhân tại sao?

 

Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, 25 quốc gia thuộc khối Đông Âu cũ đã giành được tự do – chẳng hạn như Cộng hòa Sec và Slovakia. Tôi tưởng rằng tôi là vị khách đầu tiên đến từ Cộng hòa Sec được Tổng thống đầu tiên Václav Havel mời, sau đó tôi đến thăm các nước vùng Baltic, Hungary và Bulgaria. Tôi chưa bao giờ đến Romania, nhưng tôi đã đến thăm Nam Tư cũ - Kosovo, Croatia và Slovenia. Lần đầu tiên khi tôi đặt chân cất bước đến thăm Cộng hòa Sec và nói rằng: “Bây giờ là thời điểm thích hợp để nghiên cứu thêm. Hãy nắm bắt những bộ phận hệ thống xã hội chủ nghĩa, hãy nắm bắt những bộ phận hệ thống tư bản chủ nghĩa, bằng cách này, có thể tổng hợp một hệ thống kinh tế mới. Đây là những gì tôi đã nói, nhưng tất cả đều trở thành chỉ nói suông thôi. Tất nhiên, tôi chẳng thông hiểu gì về kinh tế cả”.

 

Phương thức Sinh hoạt và Chủ nghĩa Vật chất

               (物質主義的生活方式)

 

Hôm trước tôi đã đề cập ngắn gọn về phương thức sinh hoạt phương Tây. Không chỉ phương Tây – một xã hội chủ nghĩa vật chất hơn cũng tồn tại ở Ấn Độ, một cộng đồng chủ nghĩa vật chất nhiều hơn, phải vậy không? Họ tìm khoái lạc thông qua cửa sổ các giác quan - kịch vui cười, điện ảnh, âm nhạc, món ăn tuyệt đỉnh công phu, hương thơm tuyệt diệu, cảm thụ về sinh lý rất khỏe, kể cả về tình dục. Do đó, họ chỉ tìm kiếm sự thỏa mãn thông qua cấp độ của cảm giác, thông qua các cửa ngõ bên ngoài. Tuy nhiên, nguồn gốc căn bản của sự thỏa mãn cần thông qua huấn luyện tư duy của chúng ta, thay vì thông qua việc dựa vào những kinh nghiệm cảm quan này. Những hành động gây ô nhiễm (bị độc hại) của chúng ta cần phải dừng lại. Sự ô uế của họ đều không phải vì hoàn cảnh; những hành vi làm ô uế vì những quan niệm sai lầm hoặc sự ngu muội của chúng ta. Vì thế, muốn đoạn trừ nghiệp lực ô nhiễm đang gây phiền toái cho chúng ta, trước tiên, chúng ta phải trừ khử sự ngu muội trong đại não. Đây là phương pháp của Phật giáo. Giống như trước đây tôi đã đề cập, các trung tâm nghiên cứu học thuật ngày càng cảm thấy tầm quan trọng của tâm thức chúng ta. Đây là một dấu hiệu rất lành mạnh.  

 

Tuy nhiên, có thế nói vẫn tốt hơn, “Cuộc sống của tôi tươi đẹp lạ thường.” Phật giáo cũng đề cập đến điều này và liệt kê cho nó bốn yếu tố tuyệt vời: 1. Tái sinh chuyển kiếp cảnh giới cao hơn, 2. Theo đuổi tài nguyên thiên nhiên, 3. Giáo nghĩa, 4. Giải thoát. Hai nhân tố đầu tiên là chuyển sinh cao cấp hoặc là tái sinh làm người, và sau đó có các nhu yếu phẩm phục vụ đời sống sinh hoạt hàng ngày của con người - sự giàu có về của cải, tài sản, nhiều bạn bè, v.v., để đạt được một cuộc sống an lạc hạnh phúc, một cuộc sống hoàn hảo. Các vị cần tất cả các loại nhu yếu phẩm, và các vị cần phải đạt được mục tiêu là có tiền bạc. Vì thế, ở đây là đề cập đến tiền bạc. Nhưng trong tương lai, mục tiêu của chúng ta hướng đến là cảnh giới Niết bàn – triệt tiêu vĩnh viễn sự ngu muội và những cảm xúc tiêu cực này. Vì thế, đây là biện pháp giải quyết một cách vĩnh cửu, do đó chúng ta cần tu trì Phật pháp.

 

Khoảng cách giàu nghèo

      (貧富差距)

 

Tiếp đến, một vấn đề nữa là khoảng cách giàu nghèo. Đây là một vấn đề rất nghiêm túc. Tôi đã diễn thuyết công cộng tại một hội nghị quy mô ở Wasgington, “Đây là thủ đô của quốc gia thịnh vượng nhất, nhưng ở vùng ngoại ô Washington, còn có rất nhiều người nghèo khổ và gia cảnh bần cùng. Điều đó nó không chỉ sai về mặt đạo nghĩa, mà còn có rất nhiều vấn đề căn nguyên.” Giống như sự kiện 11/9 (một loạt bốn cuộc tấn công khủng bố có sự tham gia của nhóm khủng bố Hồi giáo Al-Qaeda nhằm chống lại Hoa Kỳ diễn ra vào sáng thứ Ba, ngày 11 tháng 9 năm 2001.) điều này có liên quan đế sự bất đồng lớn. Hàng trăm triệu người dân các nước Ả Rập sống trong cảnh nghèo đói, và phương Tây đang khai thác tối đa tài nguyên thiện nhiên của họ, vì thế công chúng các nước Ả Rập cảm thấy điều này là không công bằng.

 

Đây là một số tình hình phức tạp phi thường. Tôi nghĩ đoàn thể xã hội Phật giáo nhất định phải có một số phương pháp hành động. Ít nhất hãy nỗ lực quan sát dân chúng khu vực xung quanh; hãy để sự phản ánh hiện thực có trong ý thức họ, cho họ một chút hy vọng, một chút niềm tự tin của họ.

 

Tôi thường chia sẻ với những người bằng hữu Ấn Độ của tôi, những người thuộc tầng lớp được gọi là đẳng cấp hạ tiện nhất, nhiều người  trong số họ là Phật tử - những người theo nhà cách mạng kiên cường,  Giáo sư Tiến sĩ Bhimrao Ramji Ambedkar, tôi thường nói với họ rằng cần phải có giải pháp thu hẹp khoảng cách giàu nghèo. Không phải là hô to khẩu hiệu và biểu đạt sự thất bại, họ cũng thế thôi – phận người dân nghèo khổ hơn phải tạo dựng niềm tự tin và đức tự chủ. Tôi chia sẻ với họ: “Cha đẻ Hiến pháp Ấn Độ, Giáo sư Tiến sĩ Bhimrao Ramji Ambedkar gây ý thức cho bốn đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ họ dùng. Nhưng Giáo sư Tiến sĩ Bhimrao Ramji Ambedkar cũng vậy, phải không? Vì thế, tất cả chúng ta đều bình đẳng”.

 

Tôi khẳng định rằng bộ phận nhân dân có hoàn cảnh ngặt nghèo, khốn khó vẫn được cắp sách đến trường học. Phân khúc nhà giàu hơn, bộ phận người dân đó giàu có hơn, những người có nhiều của cải hơn, những người trước đây cần được cung cấp các điều kiện – giáo dục, đào tạo và trang thiết bị - qua đó giúp họ nâng cao chất lượng cuộc sống. Tại Châu Phi tôi cũng đã nhiều lần bày tỏ điều này. Thực sự nó khó khăn cho Nam Bán cầu. Ở Bắc Bán cầu lại có xu hướng thặng dư. Thậm chí người dân ở Nam Bán cầu không có những nhu yếu phẩm cơ bản. Nhưng tất cả những người này đều là anh chị em của nhân loại hơn bảy tỷ người cùng chung sống trong đại gia đình hành tinh này.

 

Nhân quyền

   (人權)

 

Một điều nữa mà tôi muốn chia sẻ với quý vị, là chúng ta quá coi trọng những thứ cấp độ thứ hai – dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, đẳng cấp xã hội -  tầm quan trọng được gắn liền với quá nhiều điều như thế. Để đạt được một số lợi ích ở tầng thứ này, chúng ta lại quên đi tầng thứ cơ bản của con người. Đây là một vấn đề. Tôi nghĩ, đúng là chẳng vui vẻ gì, như “Hội nghị Liên Hợp Quốc về Biến đổi Khí hậu 2009” diễn ra tại Bella Center ở Copenhagen, Đan Mạch, từ 7 đến 18 tháng 12 năm 2009. Chủ yếu lợi ích của các nước lớn đối với dân tộc mình chiếm ưu thế hơn lợi ích trên toàn thế giới; Đây là lý do tại sao chúng ta phải đối mặt với rất nhiều vấn đề không cần thiết.

 

Chúng ta phải nỗ lực lớn để giáo hóa mọi người: chúng ta đều cùng nhân loại như nhau. Do đó, ưu tiên trên hết của chúng ta là các quyền cơ bản của con người. Mối quan tâm của các nhóm dân tộc và đoàn thể tôn giáo khác nhau thuộc tầng thứ hai. Giống như Trung Quốc – “Trung Quốc, dù tuyệt vời đến mấy, nó vẫn là một phần của thế giới này. Vì thế, trong tương lai, Trung Quốc phải bắt kịp thời đại.”

 

Bây giờ, chúng ta phải xem tổng thể bảy tỷ người trên hành tinh này, nhân loại đều cùng chung sống trong một đại gia đình. Tôi nghĩ đây là những gì chúng ta thực sự cần thiết. Nhưng chúng ta không thể làm điều này thông qua truyền đạo, chỉ thông qua giáo dục, thông qua ý thức chung được chia sẻ. Điều này rất quan trọng.

 

Chiến tranh

(戰爭)

 

Chúng ta cứ nói mãi việc nhân loại hạnh phúc, nhân loại hòa bình, nhân loại từ bi tâm hơn, chúng ta phải nỗ lực tìm đáp án thực sự bởi chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa quân phiệt. Trong thế giới hiện thực ngày nay, mọi thứ đều hỗ tương cho nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Nền kinh tế tương lai của Châu Âu phụ thuộc vào Châu Á và Trung Đông. Điều này với Hoa Kỳ như nhau. Tương lai của Trung Quốc cũng phụ thuộc vào Châu Á và phần còn lại của thế giới và khu vực. Đây là hiện thực. Vì thế, căn cứ vào một hiện thực này, chúng ta không thể vạch ranh giới, rằng: “Đây là kẻ thù địch. Đây là bằng hữu.” Không có cơ sở vững chắc để phân định ranh giới giữa kẻ thù và đồng minh. Do đó, căn cứ theo hiện thực ngày nay, chúng ta phải sáng tạo một cảm xúc lớn “chúng tôi”, thay vì “chúng tôi”“các bạn”.

 

Vào thời cổ đại, một nghìn năm trước, đã có sự phân chia rõ ràng giữa “chúng tôi” và “các bạn”. Trên cơ sở này, căn cứ vào cơ sở này, việc tiêu diệt kẻ thù của bạn – “bọn chúng nó” – là chiến thắng của các bạn. Như thế, khái niệm chiến tranh là một phần lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, ngày nay, hiện thực của thế giới đã mang một diện mạo mới, và chúng ta phải xem khắp nơi trên thế giới là một phần của  “chúng ta”. Chúng ta phải quan tâm sâu sắc đến an lạc hạnh phúc của người khác. Chúng ta phải cùng nhau đồng chung sống và cùng tồn tại, hỗ trợ lẫn nhau và dựa vào nhau mà tồn tại, cùng chung sống với nhau trong một thế giới như thế, không có chỗ cho bạo lực.

 

Việt dịch Thích Vân Phong

Nguồn Study Buddhism

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/09/2015(Xem: 3286)
Sau hai tháng ở trại tị nạn để hoàn tất các thủ tục giấy tờ, tôi được sở lao động cho đi học tiếng Đức trong 10 tháng. Lần này tôi đi học không phải với tâm trạng „một sớm sương thu đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi …“ cũng không còn dư âm của những tiếng trống trường xưa vẫn mãi còn vang vọng để lòng tôi lại thấy nao nao mỗi độ thu về mà tôi phải lầm lũi lội tuyết để đi trong băng giá lạnh lùng. Ôi, 10 tháng đi học cực hình như đi lao động khổ sai vậy. Tôi đã già rồi, đầu óc có còn chỗ trống đâu mà nhét chữ vào, nhất là cái thứ chữ hiểm hóc đó; nhưng nếu không chịu đi học thì lại càng khổ nữa, vừa dốt vừa lãnh tiền trợ cấp quá ít làm sao đủ sống! Sự kiểm soát những ngày đi học rất nghiêm ngặt, nghỉ học ngày nào trừ tiền ngày đó. Một ngày học 5 tiếng, quá sức nặng nề đối với tuổi già như tôi, vậy mà cũng phải cố gắng nhồi nhét được chữ nào mừng chữ đó, thật tội nghiệp cho thân tôi biết là bao!
13/09/2015(Xem: 4760)
Tiến sỹ văn hóa đọc Nguyễn Mạnh Hùng làm diễn giả của Hội sách Frankfurt lớn nhất thế giới Đó là thông tin chính thức do bà Claudia Kaiser – phó Chủ tịch Frankfurt Book Fair, CHLB Đức, hội sách lớn nhất thế giới công bố tại tọa đàm “Câu chuyện bản quyền” vào sáng 11 tháng 9 tại công viên Thống Nhất thủ đô Hà Nội trong khuôn khổ Hội sách Quốc tế Việt Nam lần thứ V diễn ra từ 10 đến 14 tháng 9.
05/09/2015(Xem: 7329)
Gió Thu bay, lá vàng chưa muốn rụng Như muốn thấy, những gì mùa Thu mới Rồi cũng rụng, hành trình một cuộc đời Kiếp của lá! Hẹn nhau mùa Xuân tới!
26/08/2015(Xem: 4542)
" Sống ở đời tham lam ham hố Cuối cùng rồi cũng xuống lỗ mà thôi, Tranh danh đoạt lợi hại người Bạc vàng tích trữ lâu đài ngựa xe, Say sưa vui thú rượu chè Ăn chơi nhảy nhót hội hè quanh năm. Tưởng rằng mình mãi còn xuân Ngỡ đâu phút chốc tan tành mộng mơ, Thân tàn ma dại nào ngờ Gia tài sự nghiệp một giờ như không.
06/08/2015(Xem: 3946)
Các bài 1.1 và 1.2 ghi nhận vài dữ kiện ngôn ngữ cho thấy vết tích của âm đọc chữ Hán sau thời nhà Nguyên (1271-1368) như Phạn (so với Phạm), Phổ Kiến (so với Phúc Kiến). Phần này (đánh số 1.3) ghi thêm vài cách đọc như “nghiện” (so với nghiệm trong linh nghiệm) và thành ngữ "Thượng hòa hạ mục/mộc" cho thấy giai đoạn nhập vào tiếng Việt sớm nhất là sau thời nhà Nguyên. Các tài liệu viết tắt là TVGT (Thuyết Văn Giải Tự - khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận (TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161), VBL (Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum, Alexandre de Rhodes, 1651), VNTĐ (Việt Nam Tự Điển/1931/1954), HV (Hán Việt), Bắc Kinh (BK). Dấu hoa thị (*) ch
23/07/2015(Xem: 12673)
Nhật báo của thành phố Neuss tường thuật về Khóa Tu Học Phật Pháp Âu Châu kỳ 27 Ngày 22.07.2015 Những Ngày Nghỉ Hè Được Dành Cho Đức Phật Khoảng 500 người Phật Tử Việt Nam đến từ Âu Châu gặp nhau 10 ngày tại Neuss. Chư Tôn Đức Tăng Ni cùng với tham dự viên của Khóa Phật Pháp Âu Châu lần thứ 27 thực tập giáo lý Phật Đà. Bài của ký giả Von Katrin Haas Thích Như Điển và Thị Chơn dịch từ tiếng Đức sang tiếng Việt
21/07/2015(Xem: 16751)
Tôi sửng sốt khi nhận được giấy mời từ văn phòng Liên hiệp quốc tại Geneva, Thụy Sỹ - Invitation for releasing “T. T. Weapon book at UN Geneve”. Tôi giật thót mình và sợ rằng bị bom thư hay bị bọn khủng bố gửi gì đó vì thấy có từ weapon, tức là vũ khí. Tôi không mở 2 file đi kèm vì tin rằng loại thư này đến hòm thư của mỗi chúng ta rất nhiều mỗi ngày.
20/07/2015(Xem: 10680)
Cách đây mấy tuần mình được tặng cuốn sách “Khu vườn bí mật”. Đây là cuốn sách tô màu dành cho người lớn mà người ta hay gọi là tô màu cảm xúc hay coloring book. Mình thật bất ngờ về những nét vẽ tinh xảo của tác giả Iohanna Basford.Mình không thể tin nổi những bức vẽ với hàng trăm họa tiết rất tinh xảo lạ kỳ đến vậy. Và mình cầm bút chì màu bắt đầu tô. Mình cứ tô theo cảm xúc và không bị bất cứ cái gì trói buộc mình. Minh nhập tâm, nhập hồn vào việc tô màu. Cuối cùng, tác phẩm đầu tay của chính mình ra đời. Mình mang ngay bức tranh mà mình đã tô xong treo lên và ngắm. Mình thích vô cùng. Hóa ra rằng tô màu cảm xúc của cuốn sách “Khu vườn bí mật” giúp mình thư giãn rất tuyệt vời. Mình cứ nghĩ, nếu bạn nào bj stress bởi cuộc sống thì đây là người bạn tốt nhất. Cứ ngồi vào và tô là mọi căng thẳng, bực bội tan biến hết ngay.
12/07/2015(Xem: 9584)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
01/07/2015(Xem: 19648)
Chủ đề Một Cõi Đi Về, Thơ và Tạp Bút tập hai, một lần nữa, được cái cơ duyên thuận lợi hân hạnh ra mắt quý độc giả. Cách đây ba năm tập một đã được xuất bản vào năm 2011. Hình thức và nội dung của tập hai nầy, cũng không khác tập một. Nghĩa là chúng tôi cũng chia ra làm hai phần: Phần đầu là thơ và phần sau là những bài viết rải rác đã được đăng tải trên các tờ Đặc san Phước Huệ. Tờ báo mỗi năm phát hành ba kỳ vào những dịp đại lễ như: Phật Đản, Vu Lan và Tết Nguyên Đán. Do đó nên những bài viết có những tiêu đề trùng hợp và nội dung có chút ít giống nhau. Tuy nhiên, mỗi bài đều có những sắc thái hương vị riêng của nó. Ngoài ra, có những bài viết với những tiêu đề khác không nằm trong phạm vi của những ngày đại lễ đặc biệt đó. Nay chúng tôi gom góp tất cả những bài viết đó lại để in chung thành một quyển sách tập hai nầy. Về ý nghĩa của chủ đề nói trên, chúng tôi cũng đã có trình bày rõ trong tập một. Ở đây, chúng tôi không muốn lặp lại. Điều quan trọng mà chúng tôi muốn nói ở đây là
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]