Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hai Giờ Quý Giá Bên Hòa Thượng Thích Giác Quang

09/04/202315:39(Xem: 4354)
Hai Giờ Quý Giá Bên Hòa Thượng Thích Giác Quang



ht giac quang 1

Tôi nhận được bản thảo cuốn sách “Phật pháp vấn đáp” của Hòa thượng Thích Giác Quang dày 500 trang và tôi đoc sơ ngay lập tức bản thảo này. Thú thật rằng là người đọc nhiều, nhưng ngay cả với tôi, nhiều điều được Hòa thượng giảng giải ở đây, bây giờ tôi mới hiểu, hoặc hiểu đúng. Bản thân tôi, dù mới tu tập chưa lâu nhưng vẫn thấy rằng rất nhiều người dân đất Việt, kể cả các Phật tử, nhất là miền Bắc, đang hiểu sai về Đức Phật và các giáo lý của Ngài. Hiểu sai một cách nghiêm trọng, thậm chí đang làm ngược lại cả những gì Đức Phật dạy. Vậy nên tôi đang cố công biên soạn cuốn sách hỏi đáp đơn giản và cơ bản nhất về Đức Phật và đạo Phật. Mừng thay, có bản thảo cuốn sách giá trị này, tôi hơn vớ được vàng.

Tôi thu xếp thời gian quyết từ Hà Nội bay vào Sài Gòn và tìm đến gặp trực tiếp Hòa thượng Thích Giác Quang. Thầy ở tỉnh Đồng Nai không xa Sài Gòn lắm nên việc đến thăm, đảnh lễ Hòa thượng cũng thuận lợi. Vậy là tôi quyết định đưa theo 4 học trò đến gặp Hòa thượng, cũng mong các trò thêm thiện duyên để tăng bồ đề tâm, quyết chí tu hành hơn nữa.

Chúng tôi đến tu viện Quan Âm thì trời đổ mưa. Em Bích Liên, Giám đốc văn phòng Thái Hà Books TP HCM vào hỏi thăm quý thầy trong tu viện để đến gặp Hòa thượng theo hẹn trước. Rồi chúng tôi bước vào. Hòa thượng Thích Giác Quang đón chúng tôi từ cửa.

Bất ngờ đầu tiên của tôi rằng nơi ở của Hòa thượng quá đơn giản. Một căn phòng nhỏ, đơn sơ nằm phía trong cùng của dãy nhà cấp bốn. Tôi hơi giật mình vì không nghĩ đây là phòng của một Hòa thượng nổi tiếng, phó ban trị sự Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai, đã viết trên 40 đầu sách, thường xuyên đi giảng Pháp.

Khi chúng tôi đến thì điện mất. Hòa thượng mở cửa sổ cho chút ánh sáng cuối ngày của trời đang mưa lọt vào. Các quý thầy mang đến một chiếc đèn nạp điện. Thầy trò ngồi trong bóng tối không nhìn rõ nhau lắm. Rồi thêm 1 chiếc đèn nữa, lại 1 chiếc nữa được bổ sung. Ánh sáng tăng dần. Tuy nhiên, chúng tôi cũng đã quen với bóng tối. Quả thật, thầy trò nói chuyện với nhau rất thân mật và ấm cúng nên tôi cũng không quan tâm đến chuyện sáng tối. Tôi chỉ muốn tận dụng tốt nhất quãng thời gian hiếm hoi này để bên Thầy, để hỏi Thầy một số thứ, để mong Thầy hướng dẫn thêm về tu tập, nhất là để cho 4 trò đi theo được lợi ích cao nhất. Một lần gặp là một lần khó mà.

Tôi bị cuốn hút bởi nụ cười rất tự nhiên, giòn tan, đầy năng lượng từ Hòa thượng Thích Giác Quang. Nụ cười của Thầy phúc hậu lắm, đẹp lắm, thật không thể tả được. Nụ cười hiền hậu ấy tỏa ra từ khuôn mặt tràn đầy từ bi của Thầy. Nói thật tôi chỉ muốn ngồi mà ngắm khuôn mặt ấy, nụ cười ấy mà thôi. Các học trò của tôi như bị hút hồn. Em Hoài, biên tập viên, hoàn toàn bị cuốn hút. Sau này, trên đường về, em tâm sự rằng chưa từng gặp một vị tu sỹ nào phúc hậu và tràn đầy từ bi và năng lượng như vậy.

Chúng tôi ngồi nghe Hòa thượng Thích Giác Quang nói chuyện và giảng giải mà đi từ hết bất ngờ này đến bất ngờ khác. Điều đơn giản nhất là các từ sử dụng cho cơ sở thờ tự và tu học của Phật giáo như chùa, tu viện, thiền viện, tịnh xá, tinh xá, tăng xá, ni viện, thiền tự, tịnh thất, niệm Phật đường, cổ tự, tổ đình được Hòa thượng giảng rất dễ hiểu và rõ ràng. Chúng tôi giờ đây biết rõ rằng tinh xá là nơi cất giữ kinh sách giống như tàng kinh các. Các em đồng nghiệp đến bây giờ mới hiểu rằng tu viện là nơi mà các quý tăng và ni của Phật giáo Tịnh độ tu tập (giống như thiền viện của bên thiền tông và tịnh xá của phái Khất sỹ). Tôi cũng không thể tin nổi rằng nơi chúng tôi đang ngồi – Quan Âm tu viện có đến 280 quý tăng và ni đang thường trú tu học. Tôi phải hỏi lại Hòa thượng Thích Giác Quang đến 3 lần vì sợ mình nghe nhầm, hoặc tưởng đây là trường hạ để quý thầy quý sư cô đang an cư kiết hạ.

Tôi cũng giật mình: Hình như ngoài miền Bắc, vốn dĩ Tịnh độ phát triển rất mạnh nhưng chưa có một tu viện nào. Tôi hình như chưa biết đến một ngôi chùa hay cơ sở tu tập và thờ tự nào ở ngoài Bắc mà có đến mấy trăm nhà sư tu học như ở đây. Tôi nhắm mắt lại và tưởng tượng ra rằng nếu 280 nhà sư này mà ra hoằng pháp ngoài miền Bắc thì tuyệt vời biết nhường nào, bởi ở ngoài miền bắc của chúng tôi , ít chùa có trên 10 nhà sư. Thậm chí có quý sư phải trụ trì đến vài ngôi chùa.

Tôi giật mình quay lại câu chuyện của Hòa thượng Thích Giác Quang về lý do tại sao thầy lại đắp y vàng theo phái Khất sỹ. Hóa ra thầy của Hòa thượng là huynh đệ với Tổ sư Minh Đăng Quang. Và thế là tôi lại được nghe thêm một lần nữa về vị Tổ sư phái Khất sỹ tuyệt vời này, lại được biết thêm, nhớ thêm về những điểm ưu việt của phái Khất sỹ rất Việt Nam. Phải nói rằng tôi đã từng nghe Hòa thượng Thích Giác Toàn, rồi ni trưởng Thích Giác Liên nói chuyện về phái Khất sỹ và về tổ sư Minh Đăng Quang, nhưng những lời từ Hòa thượng hôm nay rất lạ, rất ấn tượng, rất đặc biệt.

Phần tiếp theo chúng tôi được hiểu thêm về ngài thiền sư Nguyên Thiều. Thiền sư Nguyên Thiều là một thiền sư người Trung Quốc, thuộc phái Lâm Tế đời thứ 33, sang Việt Nam truyền đạo vào nửa cuối thế kỷ 17. Hóa ra thiền sư là vị Tổ truyền phái Lâm Tế vào Miền Trung Việt Nam đầu tiên. Nói thật rằng tôi chỉ biết đến phái Lâm Tế Liễu Quán ở Huế chứ ít biết về phái Lâm Tế ở đàng trong này. Nhờ Hòa thượng Thích Giác Quang mà chúng tôi biết hơn về thiền sư Nguyên Thiều. và có lẽ tôi sẽ cần nghiên cứu, cần đọc thêm nhiều về vị Thiến sư mà tôi ít biết này.

Điểm chú ý nhất đối với các bạn trẻ tháp tùng tôi trong chuyến thăm và đảnh lễ Hòa thượng Thích Giác Quang là nghe Hòa thượng giảng về câu “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”, trong 4 câu kệ trong kinh A Hàm “Thiên thượng thiên hạ; Duy ngã độc tôn; Nhất thiết thế gian; Sanh lão bệnh tử” tức dịch là “Trên trời dưới trời; Ta là trên hết; Tất cả thế gian; Sanh già bệnh chết”.

Những người chưa học Phật hay học chưa sâu thường hiểu rằng chữ “ngã” ở đây ám chỉ Đức Phật, rằng chỉ có Đức Phật là bậc đáng kính, đáng được tôn sùng nhất. Vì Ngài đã giác ngộ hoàn toàn, đã giải thoát hoàn toàn, đã thoát khỏi vòng luân hồi sinh già bệnh chết. Thật là tội nghiệp cho Đức Phật bị chúng sinh si mê hiểu sai. Mà nếu đúng vậy thì Ngài quá tự phụ.

Chúng sinh vô minh thường cho rằng ta là trên hết, cái ngã là chúa tể. là trường tồn, là vĩnh cửu nên sinh ra mê chấp, yêu mến cái thân này. Ta luôn bênh vực cho cái ta, bảo vệ cái ta và những gì thuộc về ta. Đức Phật là người đã chỉ ra rằng cái ta đó là bản ngã, là vọng ngã, rằng thân này là giả, là giả hợp. Có duyên thì hội tụ, hết duyên thì tan.

Đức Phật nói về cái chân ngã, cái ngã bất sinh bất diệt, cãi ngã giác ngộ. Rằng chính ta quyết định đời sống của ta, không ai có thể làm cho ta giàu lên hay nghèo đi, hạnh phúc hay bất hạnh. Chính ta tự quyết định có điều phục tham, sân, sy để tiến đến Niết bàn hay không. Nếu ta không tu thì ta sa đọa và tự dẫn mình vào 3 đường ác. Chính câu nói này cũng giúp ta, người đọc, người nghe thức tỉnh, tự giác, tự ngộ về giá trị làm người. Chúng ta hiểu rằng trên trời dưới trời này, đời sống của con người có giá trị tự mình định đoạt. Vậy nên ta nên dành thời gian tìm hiểu giá trị của chính mình chứ đừng tốn công tốn sức tìm những giá trị nằm ngoài con người mình.

Hòa thượng cũng giảng cho chúng tôi rõ thêm về tứ nhiếp pháp: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Đây là bốn pháp quan trọng để nhiếp phục chúng sinh, thu phục lòng người. Thật là quý giá.


ht giac quang 2



Nhờ Hòa thượng Thích Giác Quang, chúng tôi mới hiểu rõ hơn về Tịnh độ Non Bồng, về Linh Sơn Phật giáo, về thầy tổ của Hòa thượng. Hòa thượng còn bảo chúng tôi, nếu muốn thầy có thể đưa về thăm tổ đình nơi Bà Rịa Vũng Tàu. Tôi đồng ý ngay và muốn đi cùng Hòa thượng ngay thứ 7 và chủ nhật tuần này. Tiếc thay, khi xem lại lịch, cả thứ 7 và chủ nhật Hòa thượng đều có việc bận với sinh hoạt của Giáo hội Phật giáo tỉnh Đồng Nai và 1 khóa tu đã ấn định trước. Hòa thượng dặn tôi liên lac lại qua điện thoại. Tôi chắp tay và thực sự mong muốn cùng được về tổ đình với Hòa thượng trước khi về lại Hà Nội.

Trời đã tối hẳn. Điện đã có từ cách đây 1 giờ đồng hồ. Hóa ra chúng tôi đã ngồi bên Hòa thượng Thích Giác Quang 2 tiếng. Thời gian bên Hòa thượng 2 tiếng thì có đến quãng một tiếng mất điện, ngồi trong bóng tối và 1 tiếng có ánh sáng. Trong 2 tiếng ấy chúng tôi học được nhiều lắm. Cái được nhiều nhất có lẽ là học phong thái điềm đạm, nhẹ nhàng, phúc hậu từ Hòa thượng. Cái được nhiều nhất là thực thấy một trí tuệ lớn, những hiểu biết cao mà đơn giản, được bên một người Thầy đáng kính.

Tiễn chúng tôi, Hòa thượng Thích Giác Quang đứng ngoài sân nói chuyện khá lâu. Thầy giới thiệu sơ về Quan Âm tu viện và việc tu hành của 280 quý tăng ni tại đây.

Chúng tôi ra về mà lòng xốn xang. Chúng tôi mang theo mình một gia tài quý giá, một kho lương khô để ăn dần. 5 thầy trò chúng tôi ai cũng hoan hỷ, nhất là các em Bích Liên, Nguyên Minh, Hoài và Công. Tôi thì nghĩ đến duyên lành có cơ hội xuất bản và tái bản kho tri thức của Thầy. Rồi đây chúng sinh sẽ được đọc những gì Thầy giảng, để dần bớt vô minh, để giác ngộ từng bước, để giải thoát từng phần.

Một ý nữa mà tôi không thể không viết ra ở cuối bài này, rằng tôi và bạn chắc chắn đã từng nghe đến “thiền - tịnh song tu” đúng không ạ. Tuy nhiên, bây giờ bạn sẽ được biết, giống như tôi hôm thứ 5 vừa rồi, rằng chính Hòa thượng Thích Giác Quang là người đang cổ súy rất mạnh mẽ cho môn phái này. Nếu bạn muốn tu theo pháp môn này, nơi mà bạn cần tìm đến là Quan Âm tu viện, người mà bạn cần gặp nhất chính là người Thầy đáng kính mà chúng tôi đã có may mắn mới được gặp trong quãng 2 tiếng đồng hồ quý giá. Nếu đường xá xa xôi quá, xin bạn chuẩn bị đón đọc cuốn sách quý, đảm bảo rất thiết thực với tựa đề “Phật pháp vấn đáp”. Và bạn cũng sẽ thấy Hòa thượng rất rõ trong đó.

Trong não tôi lúc này đây đang vang lên những vần thơ, những câu kệ, với lòng biết ơn Hòa thượng Thích Giác Quang và hơn 100 phút quý giá:

“Việc đời nên gác để ngoài tai

Việc đạo nên chăng vẫn học hoài

Giáo pháp ngàn xưa còn vang đó

Tánh chân thường trụ kiến Như Lai”.

TS Nguyễn Mạnh Hùng

Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Công ty sách Thái Hà

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2016(Xem: 12807)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16729)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11954)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7550)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 20936)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4437)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4205)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3617)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13291)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
24/05/2016(Xem: 3143)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]