Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vai Trò Của Người Cư Sĩ Phật Tử

15/02/202314:16(Xem: 2068)
Vai Trò Của Người Cư Sĩ Phật Tử


tv quang duc-2

Vai Trò Của
Người Cư Sĩ Phật Tử



Thế giới ngày nay mà chúng ta gọi là “thời đại mới” đổi thay đến chóng mặt, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống trong đó có tôn giáo. Tuy không có “thánh chiến” được công khai tuyên bố, nhưng cạnh tranh để bành trướng, giành giật tín đồ, mua chuộc dưới mọi hình thức để cải đạo, kể cả bằng bạo lực đã diễn ra hàng ngày và gần như trên quy mô toàn cầu.

Điều này dễ hiểu bởi vì khi tín đồ bành trướng thì sức mạnh chính trị bành trướng. Khi sức mạnh chính trị bành trướng thì khống chế được chính quyền hoặc chiếm đoạt được chính quyền. Khi chiếm đoạt được chính quyền thì chính quyền là phương tiện mạnh nhất để áp đặt hoặc bành trướng hoặc cải đạo hàng loạt. Chính Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã nói lên lời cảnh báo về kế hoạch cải đạo quy mô mà Á Châu là mảnh đất màu mỡ nhất để thi hành kế hoạch này. Đức Đạt Lai Lạt Ma gọi đó là “chiến tranh văn hóa”.

Trước tình hình đó hàng ngũ tăng-ni, một mình không đủ sức đảm đương mọi chuyện mà cần có sự trợ giúp của mọi tầng lớp Phật tử và cư sĩ tại gia, không ngoài mục đích gìn giữ tín đồ và sự trường tồn của đạo pháp và giữ gìn bản sắc dân tộc. Một dân tộc không có bản sắc chỉ là khối “ngoại kiều” tạp chủng sống trên cùng một đất nước. Khi đất nước không có bản sắc – tức không có một dòng chính văn hóa  và tâm linh (mainstream) thì dân tộc khó đoàn kết.  Khi đó lực lượng chính trị sẽ “vọng ngoại” để tìm chỗ dựa, nói khác đi đất nước sẽ bị ngoại bang khuynh loát. Chính vì thế mà các quốc gia Âu Châu và Hoa Kỳ đã nổi lên những chủ trương bảo vệ Thiên Chúa Giáo khi số dân không phải Da Trắng khác đạo, khác văn hóa gia tăng trên đất nước họ.

Nói về cư sĩ tu tại gia, họ không phải ai xa lạ - trước hết họ là Phật tử - nhưng là một Phật tử không bình thường.  Người cư sĩ Phật tử có những đặc điểm như sau:

-Người cư sĩ tại gia, ngoài việc tụng kinh niệm Phật, hành thiền như các Phật tử bình thường, họ còn có khả năng nghiên cứu kinh điển. Rất nhiều vị là các nhà học Phật uyên bác có khả năng luận giải kinh điển, giảng dạy, hành lễ và thuyết pháp. Những đỉnh cao chói lọi của hàng cư sĩ trong quá khứ phải kể tới Vua A Dục của Ấn Độ, Lương Vũ Đế của Trung Hoa, Vua Lý Thái Tổ của Việt Nam. Và lịch sử Việt Nam cận đại phải ghi công các bậc cư sĩ lỗi lạc như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Lê Đình Thám, Nguyễn An Ninh, học giả Đoàn Trung Còn, Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục.  Mới đây có Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng, Phạm Công Thiện, một số cư sĩ tiếp nối như Tâm Diệu, Nguyên Giác, Hoang Phong, Vĩnh Hảo và rất nhiều cư sĩ khác viết về Phật pháp không biết mệt mỏi, các dịch giả như Trúc Thiên, Phạm Kim Khánh và nhà soạn Từ Điện Phật Học Anh-Việt-Pali Thiện Phúc v.v…

-Một số không có khả năng nghiên cứu Phật học thâm sâu, do tín tâm cao, do tu hành tinh tấn hoặc đáp ứng được nhu cầu thiết thực của đời sống đã quy tụ được một số đông Phật tử qua công tác hộ niệm, ủy lạo, thiện nguyện, xây cầu, xây đường, mở quán cơm chay miễn phí, phát quà cho những gia đình nghèo, thăm viếng bệnh nhân gặp khó khăn…từ đó góp quan trọng vào việc gìn giữ tín đồ và xoa dịu phần nào những khổ đau của xã hội mà không một nhà cầm quyền nào có thể chu toàn trách nhiệm. Trong và ngoài nước hiện nay hình thành rất nhiều nhóm cư sĩ Phật tử như thế này.

-Cư sĩ Phật tử có thể là các thương gia giàu có chẳng hạn như Ông Cấp Cô Độc năm xưa là đại phú thương. Khi các đại phú thương phát Bồ Đề Tâm thì họ có thể để lại những di sản rất lớn. Chẳng hạn như nhờ Ông Cấp Cô Độc dám trải vàng mua vườn thượng uyển của Thái Tử Kỳ Đà thỉnh Phật thuyết pháp mà ngày nay chúng ta mới có bộ Kinh A Di Đà. Hiện nay trong nước có rất nhiều đại phú thương phát Bồ Đề Tâm bằng cách bỏ ra cả triệu Mỹ Kim để kiến tạo những ngôi chùa nguy nga, khu du lịch tâm linh, sưu tầm ngọc quý sau đó tôn tạo tượng như: tượng Phật ngọc, tượng Phật Bà Quan Ấm và tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Chắc chắn những pho tượng này sẽ cùng trường tồn với dân tộc.

-Người cư sĩ Phật tử có thể là những nghệ sĩ. Nếu là nghệ sĩ lớn, tác phẩm của họ có thể trở nên bất tử , lưu truyền rộng rãi trong dân chúng chẳng hạn như bài thơ Lửa Từ Bi của thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm trong  Pháp Nạn 1963 cách đây 50 năm. Hiện nay ở trong nước, nhà thơ Phạm Thiên Thư được tôn vinh vì những bài thơ đượm mùi Thiền của ông trong thi tập nổi tiếng Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng. Còn nhạc sĩ Phạm Duy lại được ngưỡng mộ vì những bài Thiền Ca và Đạo Ca. Chúng ta nên nhớ, đối với bậc tu hành giải thoát thì ca hát có khi chỉ là phiền não nhưng đối với quần chúng Phật tử thì thi ca, phim ảnh, giải trí lại là phương tiện truyền đạt hữu hiệu nhất. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng chỉ cần nhìn vào số lượng thiền ca, Phật nhạc, đạo ca, phim ảnh, truyện Phật giáo được phổ biến trong quần chúng, chúng ta có thể nói đạo pháp thịnh hay suy.

-Người cư sĩ Phật tử có thể là quốc vương, hoàng hậu, thứ phi, công chúa, đại thần hoặc những vị nắm giữ những vai trò quan trọng trong chính phủ. Hầu hết các ngôi cổ tự  của Việt Nam mà ngày nay đã trở thành di tích lịch sử đều do các vị này lập ra. Tôi có đọc một bài nghị luận trong nước nói rằng nếu Thiền Sư Vạn Hạnh và Thiền Sư Lý KhánhVân cho Lý Công Uẩn xuất gia thì bất quá Lý Công Uẩn chỉ trở thành môt danh tăng chứ không thể đưa dân tộc Đại Việt vào một thời kỳ huy hoàng như vậy. Do đó, trong bất kỳ thời đại nào, nếu lãnh đạo đất nước lại là những vị có lòng với Dân Tộc và Đạo Pháp thì chắc chắn Đạo Pháp sẽ hưng thịnh.

-Sau hết, cư sĩ có thể là các cơ quan truyền thông. Nếu họ có lòng, có trình độ thì truyền thông sẽ là phương tiện mạnh mẽ nhất để hộ pháp và hoằng pháp.  Hiện nay tại hải ngoại có những tạp chí và hệ thống truyền thông do cư sĩ điều hành nổi tiếng như Thư Viện Hoa Sen, Bodi Media, nguyệt san Chánh Pháp và nguyệt san Tinh Tấn.

Hiện nay tại Âu Châu, Hoa Kỳ các tôn giáo cổ truyền đang suy thoái trầm trọng và có khả năng đất nước Hoa Kỳ và Âu Châu sẽ thay đổi diện mạo trong vài chục năm tới. Theo tờ The Guardian ngày 22/1/2023,  nhà thờ ở Mỹ đang phải đóng cửa với số lượng tăng nhanh khi mà giáo đoàn khắp đất nước giảm và thế hệ trẻ từ bỏ Thiên Chúa Giáo cho dù Thiên Chúa Giáo vẫn thống trị nền chính trị Hoa Kỳ. Khoảng 4500 nhà thờ Tin Lành hệ phái Prostestan đóng cửa năm 2019.

Theo www.youtube.com/watch?v=Rfx4glTU5JQ  mỗi năm có 20,000  người Hoa Kỳ và 70,000 người Pháp cải đạo sang Hồi Giáo. Theo www.independent.co.uk  mỗi năm có 5000 người Anh cải đạo sang Hồi Giáo. Trước thực tế đó họ phải “mở một đường máu” sang Châu Á để để bù đắp lại số tín đồ đã mất trong khi Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh đã bão hòa. Trong khi chúng ta ngồi đây thì từng đoàn gọi là “thiện nguyện” đang tiến sâu vào các vùng xa xôi của Mông Cổ, Miến Điện, Tích Lan, Tây Tạng, Tây Nguyên v.v... nói là để giúp đỡ nhưng thực chất là để dụ dỗ cải đạo ngay tại chỗ. Các vùng đồng bằng mà đời sống dân chúng còn khó khăn, các vùng cao nguyên, rừng núi hoang vu bao gồm nhiều sắc dân thiểu số là mảnh đất màu mỡ để thi hành kế hoạch này. Chỉ cần phái đoàn gọi là “thiện nguyện” đó tới phát quà, khám bệnh, phát thuốc và hứa hẹn một đời sống huy hoàng kiểu Mỹ hoặc sẽ được đi Mỹ… thì cả một buôn làng có thể tân tòng theo đạo mới. Thủ đoạn dùng “chiếc bánh ở trên trời” luôn luôn thành công đối với tầng lớp nghèo khổ, túng quẫn. Họ cần bất cứ cái phao nào, dù là một cọng rơm để bám. Chúng ta không trách họ được. Họ là nạn nhân.

Tuy vấn đề cấp bách như thế nhưng trong hàng cư sĩ Phật tử tôi thấy không có nhiều vị quan tâm. Tôi nghĩ rằng đã đến lúc hàng cư sĩ Phật tử chúng ta phải có can đảm nhìn vào vấn đề này.

-Trong gia đình, chúng ta phải thẳng thắn giáo dục con cái về nạn cải đạo qua hôn nhân.

-Những Phật tử  trên giường bệnh trước giờ phút lâm chung vì không có tăng/ni hộ niệm hoặc hộ niệm các chùa tính giá đắt quá đã bị cướp đi linh hồn.

-Những  Phật tử túng thiếu cũng chỉ vì sự giúp đỡ nhỏ mà nỡ vứt đi đạo ông bà. Giới trẻ gia đình gốc Phật Giáo nhưng không am hiểu giáo lý, tham dự những cuộc vui chơi có mục đích “dụ đạo” cũng dễ dàng bỏ đạo.

-Con gái lấy chồng Đại Hàn tân tòng theo đạo mới, trở về nước cải đạo ngay ông bà cha mẹ mình. Người Việt tại Mỹ theo đạo Tin Lành du lịch Việt Nam, tới đền thờ Đức Trần Hưng Đạo họ không chịu bước vào vì họ không thờ ngẫu tượng.


Trong nước đã có một số  đề nghị chống lại sách lược cải đạo, nhưng hải ngoại thì chưa thấy. Tôi chưa hình dung được kế hoạch “phản cải đạo” phải bao gồm những bước như thế nào. Nhưng theo tôi có hai bước quan trọng:

-Thứ nhất: Bản thân chúng ta là một Phật tử phải ý thức được giá trị cao cả của Đạo Phật. Đạo Phật đang từng bước trở thành lương tri của nhân loại cho nên dù hoàn cảnh nào đi nữa cũng phải giữ tâm Bồ Đề cho kiên cố, tức không bao giờ bỏ đạo. Để minh chứng cho sự cao thượng của Phật Giáo tôi xin ghi ra đây lời nói chân tình của một Phật tử người Mỹ tên John vừa được được Phật tử tên Huyền Lam dịch ra Việt ngữ và đưa lên mạng lưới toàn cầu, ”Suốt mấy năm nghiên cứu Phật giáo, đến thiền đường này, không một ai khuyên tôi quy y làm người Phật tử. Tôi rất ngạc nhiên và ngưỡng mộ cách hành xử của người con Phật. Tuy nhiên điều làm tôi và cả thế giới ngỡ ngàng khâm phục hơn cả chính là sự kiện hai thánh tích Phật giáo bị Taliban phá hủy. Trong niềm tiếc thương vô biên, người Phật tử toàn thế giới không hề có một lời kêu gọi trả thù hay phỉ báng tôn giáo của những người gây ra hành động này. Cá nhân tôi bàng hoàng, rung chấn con tim tận cùng khi nhận ra rằng: Trong sự mất mát không thể bù đắp này, nhân loại thế giới đang có cơ hội hiếm hoi chiêm nghiệm thành qủa của một tôn giáo mà lòng từ bi, trí tuệ không phải chỉ trong sách vở. Không phải chỉ thể hiện qua một người, vài người mà hằng trăm triệu người con Phật. Tôi quyết định quy y để chính thức làm một người Phật tử nhỏ bé trong mấy trăm triệu người này.”

-Thứ hai: Đối với tập thể, phải có kế hoạch hoạt động xã hội, thiện nguyện bao gồm luôn cả công tác văn hóa theo tinh thần thực tiễn “Có thực mới vực được đạo” để hoằng dương chánh pháp và giữ gìn tín đồ.  Chúng ta không thể mơ màng sống với hào quang đạo Phật là đạo tốt lành nhất để rồi năm mười năm nữa, bừng mắt dậy thấy Đạo Phật trở thành thiểu số trên chính quê hương mình.

-Thứ ba: Chúng ta phải đánh bật quan điểm sai trái cho rằng Đạo Phật yếm thế và hư vô hóa cuộc đời. Chúng ta phải viết làm sao, tu làm sao, sống làm sao để cho thấy Đạo Phật tôn trọng và mở mang trí tuệ cho con người. Với Đạo Phật, nhân loại sẽ sống trong tình huynh đệ, bình đẳng, không  hận thù, kỳ thị. Đạo Phật là viên thuốc bổ, là nước Cam Lồ giải thoát giúp con người sống có trách nhiệm, đạo đức giữa một thế giới ngày càng trở nên căng thẳng, khó khăn và đầy bạo động. Mục tiêu tối hậu của Đạo Phật là giúp chúng ta sống hạnh phúc, an vui, nhẹ nhàng mà không tổn hại tới ai qua con đường Bát Chánh Đạo và Thập Thiện.

Thiện Quả Đào Văn Bình






 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/02/2012(Xem: 14765)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
01/02/2012(Xem: 9467)
Muôn nhờ Đức Phật từ bi Giải oan cứu khổ độ về Tây Phương (Nguyễn Du) Mỗi khi gặp nhau, những người Phật tử Việt Nam thường chào hỏi với nhau bằng cách chắp tay trước ngực và niệm danh hiệu Đức Phật Di Đà, và khóa tụng kinh buổi tối thì gần như hầu hết các chùa, nhất là các chùa ở miệt nhà quê không gọi là đi tụng kinh mà gọi là đi Tịnh Độ. Điều ấy chứng tỏ rằng tín ngưỡng Di Đà đã gần như được tuyệt đại đa số xuất gia cũng như tại gia, trí thức cũng như bình dân đều hết lòng tin theo và thọ trì.
24/01/2012(Xem: 11874)
Vănhọc Phật giáo nói chung, văn học Phật giáo Việt Nam nói riêng dứt khoát phải thể hiện giáo lý nhà Phật, mà cụ thể là thểhiện vấn đề về bản thể luận, về giải thoát luận và những con đường tu chứng. Để biểu lộ nội dung trên, văn học Phật giáo phải có một nghệ thuật tương xứng. Ở bài viết này sẽ đề cậpmấy nét đặc sắc về nghệ thuật của văn học Phật giáo. Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần đểminh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
24/01/2012(Xem: 2384)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
23/01/2012(Xem: 12458)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
18/01/2012(Xem: 2314)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
18/01/2012(Xem: 7297)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
15/01/2012(Xem: 11455)
Đi cho hết cõi Ta Bà,sống cho trọn kiếp nhân sinh, cuối cùng chúng ta quay đầu về cố quận, điểm không cùng của sanh tử, lằn ranh vô tận của vô minh, khởi đầu và chung cuộc. Mộtsự đối diện gay go, thách đố giữa hai bờ mê ngộ, trên từng đỉnh cao ngút ngàn củagian truân vất vả, với vô thường cận kề nối nhịp, hay trên từng hoang sơ trơ trụituyết sương, nhịp bước cùng ta trong sự hoan hỷ tuyệt cùng?.. Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
13/01/2012(Xem: 13852)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
09/01/2012(Xem: 4058)
Thoáng chốc mà đã bamươi sáu năm, như ba sáu ngày nhẹ nhàng trôi trên dòng thời gian vô hình vunvút. Cũng một buổi chiều xuân với bầu trời trong vắt, ánh mặt trời rãi màu vàng lốm đốm trong vườn đào đầy thơ mộng này, và cũng dưới cội đào già này, Đông và Xuân đã gặp nhau…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567