Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nước Mắt Đàn Ông

05/09/202217:47(Xem: 3033)
Nước Mắt Đàn Ông


nuoc mat dan ong 2


Nước Mắt Đàn Ông





Theo truyền thuyết, tạo hóa sinh ra đàn bà từ một dẻ sườn của người đàn ông và ban tặng họ cả gia tài khổng lồ đó là những giọt nước mắt của suối nguồn yêu thương, đau khổ. Đàn bà khóc là chuyện bình thường. Còn đàn ông, liệu họ có bao giờ rơi nước mắt? Nhân gian quan niệm đàn ông thường gắn liền với bản lĩnh cứng cỏi, sự lạnh lùng vô cảm. Không! Đàn ông cũng biết khóc, cười bởi họ cũng là con người có trái tim. Chỉ có điều nước mắt đàn bà trào qua bờ mi thì nước mắt đàn ông lại chảy ngược vào tim.

Tôi đã hơn một lần chứng kiến nước mắt đàn ông rơi.

Cha tôi khóc, ngày mẹ buông tay cha con tôi đi theo một người đàn ông khác, mẹ mải mê kiếm tìm ảo ảnh hạnh phúc ở chân trời xa lắc mà quên đi tổ ấm bình yên. Ngày ấy, cha câm lặng như một pho tượng bằng đá, bàn tay thô ráp của cha cầm cái rựa chém mạnh vào cây chuối sau vườn nhà, thân chuối đứt đôi như duyên nợ của cha mẹ tôi gãy làm đôi mảnh. Lưỡi dao sắc ngọt chém toạc bóng đêm, chém rách ngọn gió đông gầy, chém toạc lời thề đá vàng tào khang. Tôi sợ hãi ôm lấy cha, hét lên: “ Cha ơi, cây chuối mẹ trồng đó! Nó ra hoa rồi kìa!”. Nghe câu nói ngây thơ của tôi, cha cười đắng ngắt: “cảnh còn, người mất, tiếc chi con!”. Đêm ấy, nằm bên cha, tôi thao thức, nghe hai hàm răng cha nghiến mạnh để không bật ra tiếng khóc nhưng tôi vẫn cảm nhận được những giọt nước mắt mặn mòi của cha chảy ngược vào tim, tim cha buốt nhói, cha trằn trọc, tiếng thở dài kẽo kẹt nhịp chõng tre. Nhiều ngày sau đó, cha lầm lũi làm việc, đêm khuya, cha mượn cút rượu cuốc lủi có cái nút lá chuối khô tìm quên. Những lúc ấy, mắt cha đỏ ngầu, cổ họng cha phát ra những tiếng khô khốc tựa lời nguyền cay độc. Khi ấy, tôi chẳng hiểu cha cười hay khóc nữa, nếu có cười thì cũng ra nước mắt mà thôi. Rồi cha nhìn trăng, ngâm ngợi đôi vần thơ chua chát:

“Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Tào Khê nước chảy hãy còn trơ trơ.”

Tôi cảm nhận được vết thương trong lòng cha sâu hoắm như một cái hố. Và tôi biết cha còn thương mẹ rất nhiều. Thương và hận đã vò xé con tim rớm máu của cha. Những tháng ngày ấy, cha tôi nước mắt chan cơm vơi đầy.

Gà trống nuôi con, cha quyết chí nuôi tôi ăn học. Kỳ thi đại học đến, cha con tôi khăn gói quả mướp lếch thếch đưa nhau lên thủ đô. Lần đầu tiên cha tôi xỏ đôi dép, đôi dép tổ ong mới đổi của bà lông ngan, lông vịt không che hết những ngón chân thô kệch lam lũ thò ra. Nhìn bộ dạng quê mùa, lớ ngớ của cha con tôi, bọn xe dù, bến cóc thi nhau chào mời. Cha con tôi bị bán khách đến vài ba lần, vẫn phải đi bộ hàng cây số mới hỏi thăm đến trường thi. Mỗi lần trả tiền xe, cha ngậm ngùi cởi bọc tiền được gói cẩn thận trong cái áo bộ đội đã sờn, còn tôi ấm ức, bức xúc với thái độ chém chặt, lừa gạt khách. Tôi lầm bầm: “ Cuộc sống thành phố thật phức tạp.”. Sợ tôi nản chí, ảnh hưởng việc thi cử, cha gượng cười: “ Lần đầu cha con mình lên đây, như vậy cũng rút ra bài học, đi một ngày đàng học một sàng khôn đó con.”. Sau khi thuê phòng trọ thi cho tôi tại kí túc xá, cha đưa tôi vào căng tin ăn cơm, nhưng cha chỉ mua một suất. Tôi ngạc nhiên hỏi, cha nói rằng hẹn gặp một người quen ăn cơm cùng họ. Tôi hồn nhiên tin ngay mà đâu hay cha lặng lẽ ăn cơm nắm, muối vừng dưới gốc cây. Đêm xuống, cha nói với tôi vào ngủ nhờ nhà người quen. Nào ngờ, sáng ra, lạ nhà, không ngủ được, tôi lang thang ra hành lang, giật mình phát hiện cha đang nằm ngủ ở ghế đá trong khuôn viên. Đến bên cha, tôi nghẹn ngào khóc nấc: “ Mình về thôi cha, con không thi nữa!”. Cha choàng tỉnh, an ủi tôi: “ Bố cô! Tôi ngủ đây mát như đàn, sao nào. Cực bao nhiêu cha cũng lo cho con học, phải học mới mở mặt ra được con ạ! Như cha đây, thất học, bất tài nên mẹ con bỏ cha...”, mắt cha nhìn xa xăm, còn tôi lại hun đúc quyết tâm khoa bảng. Sau mỗi buổi thi, cổng trường đông nghịt phụ huynh chờ con với tâm trạng hồi hộp. Giữa những chiếc xe hơi sang trọng nối đuôi nhau cùng dòng người mặt hoa da phấn, tôi nhận ra cha với chiếc áo bạc màu, cái quần quăn tít như lò xo cùng bộ dạng hớt hải, cha cầm cái mũ cối vẫy tay ra hiệu cho tôi khiến tôi không cầm được nước mắt. Tôi hoàn thành bài thi rất tốt, cha vui lắm, nhìn thiên hạ đưa rước con bằng xe hơi, cha ngậm ngùi: “ Cha bất tài nên con thiệt thòi!”. Tôi ôm lấy cha thầm thì: “Cha là người đàn ông vĩ đại nhất trong mắt con!”, cha cười mà mắt đỏ hoe: “ Bố cô! Lẻo mép!”.

Một ngày đẹp trời, cha đang cào thóc phơi bỗng có tiếng xe đạp “kính coong” của anh bưu tá đưa thư. Tôi trúng tuyển đại học. Hình như cha mừng hơn cả tôi, cầm phong thư có dấu đỏ chót của trường đại học trên tay, cha vỗ tay vào đùi đánh đét rồi quýnh quáng chạy khoe khắp xóm. Bà con ai cũng mừng cho cha con tôi.

Lần thứ hai cha khóc, ấy là ngày tiễn tôi đi học đại học. Ngồi trên chuyến xe liên tỉnh duy nhất trong ngày, tôi ngoái đầu nhìn lại, trong làn khói bụi, cha đứng đó, hanh hao gầy, mắt cha rưng rưng. Bóng cha loang lổ trong hoàng hôn nhạt nắng Tôi lên thành phố để lại trong cha cả trời thương nhớ, cả nỗi cô đơn vò võ. Cuộc sống phồn hoa chốn đô hội khiến tôi lạc lõng, thương nhớ cha nhiều hơn. Cha viết thư dặn dò tôi phải chăm chỉ học, không cần về nhà nhiều, dồn thời gian mà học, cần gì cha sẽ gửi cho. Thương cha, tôi chăm chỉ học hành, giành được học bổng cao nhất.

Nghỉ Tết, tôi háo hức mua sắm đồ trở về quê, không quên mua biếu cha một bộ quần áo mới bằng tiền học bổng của mình. Lặng lẽ về, không báo trước để tạo sự bất ngờ cho cha, bước chân vào khoảng sân vắng, tôi nghẹn lòng bắt gặp hình ảnh cha cặm cụi ngồi gói bánh chưng với đôi bàn tay vụng về, lóng ngóng. Việc này, bao năm rồi mẹ tôi vẫn làm. Cha gầy hơn, đôi mắt trũng sâu hơn. Chạy lại bên cha, tôi nghẹn ngào: “ Con nhớ cha quá!”, chiếc lá dong trên tay cha rơi xuống, cha mừng rỡ ngắm nghía tôi từ đầu đến chân, vẫn câu nói quen thuộc mà ghim tạc vào lòng tôi ngọt ngào: “ Bố cô! Lớn rồi mà như con nít! Liệu mà học, đừng có yêu đương tí tởn, cha gọt đầu bôi vôi nghe con!”. Những ngày Tết thật đầm ấm biết bao, tiếng nói cười rộn rã của tôi dệt thành những sợi nắng hồng sưởi ấm cuộc đời u buồn, ngang trái của cha dẫu những ngày ấy thật ngắn ngủi.

Tốt nghiệp đại học với tấm bằng đỏ, tôi dễ dàng kiếm được một công việc như mơ. Rồi tôi đẹp duyên với một chàng trai Hà thành gia giáo, tài ba. Cuộc đời như trải thảm cho tôi đi. Không! Đúng hơn là cha tôi đã dùng sự lam lũ, cay đắng đời mình để đệt thảm cuộc đời tôi. Cha đã nuôi tôi thành người bằng những đồng tiền lấm lem, chiu chắt một nắng hai sương. Cha đã oằn lưng cơ cực để con đường tôi đi thẳng tắp. Cha đã dùng giọt nước mắt đời mình để tô hồng nụ cười trên môi tôi. Ngày tôi lên xe hoa theo chồng, tôi đâu hay cha đã khóc thật nhiều mặc dù cha cố tỏ ra cứng rắn vì không muốn tôi buồn trong ngày hạnh phúc nhất cuộc đời. Ngoái lại, tôi bắt gặp hình bóng liêu xiêu, gầy guộc của cha thẫn thờ nhìn xác pháo tung bay rợp bờ sông đỏ nắng. Đưa tay vẫy chào tôi, cha khóc, nước mắt lăn dài trên gò má sạm màu nắng gió. Bộ quần áo mới toanh, sang trọng tôi sắm cho cha không khiến cha lột xác, nó mâu thuẩn , đối lập thê thảm với bộ dạng khắc khổ của cha.

Làm dâu xứ người, nỗi nhớ thương cha cồn cào trong tôi. Mỗi khi ngồi quây quần bên mâm cơm gia đình chồng cùng bàn ăn thịnh soạn, tôi lại thắt lòng, quay quắt nghĩ đến cha đơn chiếc bên cái mâm gỗ cùng vài quả cà muối hẩm, rau muống chấm tương. Tết đến, xuân về là lúc tôi nhớ cha nhiều hơn. Được cái mẹ chồng tôi là người hiểu biết, cảm cảnh cha tôi hiu quạnh, bà mua sắm quà Tết rồi cho vợ chồng tôi về quê ăn tết với cha. Tôi mừng rơi nước mắt. Ba Mươi Tết, vợ chồng tôi đánh xe hơi về quê. Không khí ngày xuân khiến xóm làng tưng bừng, rộn rã. Nhà nhà quây quần, đầm ấm bên mâm cơm tất niên sum vầy. Bước chân vào ngõ, lòng tôi quặn thắt nhìn ngôi nhà hiu quạnh, buồn tênh không chút sắc khí ngày xuân. Nép sau cây rơm, tôi lặng lẽ quan sát cha. Thân hình khắc khổ của cha lọt thỏm trong tấm áo bông huyền thoại, ngọn gió mãn đông tàn nhẫn rít gào từng cơn tê tái. Hình ảnh cha khoảnh khắc ấy đóng đinh trong lòng tôi nhức buốt. Ba Mươi tết, cha đơn chiếc, vò võ một mình. Ba Mươi Tết, cha cặm cụi, thui thủi bên chái bếp làm cơm cúng tổ tiên. Bàn tay gầy guộc của cha lóng ngóng đơm xôi, cái bánh chưng bóc vụng miếng to, miếng nhỏ, đỗ, thịt thò cả ra ngoài. Tiếng nói cười rôm rả bên nhà hàng xóm vọng lại khiến cha ngước mắt, rồi cha nhìn xa xăm như kiếm tìm điều gì đó và...một giọt nước mắt mặn mòi từ từ lăn xuống khuôn mặt khắc khổ, in hằn bao cay đắng. Không thể kìm lòng được nữa, tôi chạy đến ôm chầm cha nức nở như con nít bị đòn oan: “ Cha ơi, con về với cha rồi đây!”. Cha tôi sững sờ: “Các con về sao không báo cha? Cúng tất niên xong, mau về trên đấy ăn Tết với ông bà.”. Tôi vẫn nghẹn ngào: “Không, vợ chồng con sẽ ăn tết với cha.”. Cha lặng người, ái ngại: “Thế sao được, con gái lấy chồng phải chu toàn việc nhà chồng. Cả năm có ba ngày tết, các con phải về sum họp kẻo lỗi đạo dâu con.”. Chồng tôi cay cay khóe mắt, ôm choàng cha: “Là mẹ con bảo chúng con về đó cha.”. Đúng lúc ấy có chuông điện thoại của mẹ chồng tôi gọi chúc tết cha tôi, bà nói rằng trên đó còn có các anh, chị nên vợ chồng tôi cứ yên tâm ăn tết ở quê cùng cha. Cha mừng ra mặt, vụng về nói lời cảm ơn và chúc tết bố mẹ chồng tôi.

Một ngày, dì ruột tôi báo tin mẹ tôi bệnh nặng, đơn chiếc một mình không ai chăm sóc. Người đàn ông dụ dỗ mẹ tôi đã bỏ bà ra đi khi “Con ong đã tỏ đường đi, lối về”, khi hoa tàn, nhụy rữa xuân thì nhạt phai. Nghe tin ấy, lòng tôi lạnh lùng, dửng dưng lạ! Tôi thầm nghĩ phải chăng đó là quả báo mà bà đã tự gieo, gặt. Nhưng dì tôi nói đúng, dẫu oán giận bao nhiêu thì tôi vẫn là giọt máu mà mẹ đã mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày, thâm tình đâu dễ dàng rũ bỏ. Tôi quyết định thông báo với cha tin này. Mặt ông tím bầm lại giận dữ hệt như cái ngày mẹ bỏ đi, ông hét lớn: “Đừng nhắc tới người đàn bà tệ bạc ấy trước mặt cha. Coi như bà ấy đã chết rồi.”

Vậy nhưng nước mắt cha tôi vẫn rơi tiếp. Ấy là ngày cuối đời của mẹ, cha bất ngờ xuất hiện. Mẹ thều thào nói lời tạ lỗi với cha con tôi trong hơi thở gấp gáp. Cha khóc nghẹn: “Bà dại lắm! Sao lại để mình ra nông nỗi này? Bà có biết tôi vẫn đợi bà trở về từng ngày không? Có kiếp sau, bà vẫn phải trả nợ cha con tôi. Tôi đưa bà về nhà mình nhé!”. Thì ra cha vẫn yêu mẹ nhiều lắm, tình yêu và hận thù làm héo hon con tim cha. Mẹ tôi cười thanh thản, nhẹ lòng, hai tay mẹ run rẩy chới với nắm tay tôi và cha, giọt nước mắt của cha và mẹ hòa vào nhau trên đường giao định mệnh. Mẹ trút hơi thở cuối cùng. Cha tôi lại lặng lẽ lo ma chay cho mẹ, khuôn mặt cha thêm nhiều nếp nhăn hơn, đôi mắt ông trũng sâu hơn. Mỗi ngày cúng cơm cho mẹ, nước mắt cha lại chảy ngược vào tim. Tôi biết!

Khi nước mắt đàn ông rơi, ấy là tột đỉnh của niềm hạnh phúc!
Khi nước mắt đàn ông rơi, ấy là tột cùng của sự khổ đau!
Cha tôi... đã khóc một đời!
Đi qua ngày của cha.
Từ FB Anh Phan








Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/07/2021(Xem: 11204)
Thật không ngờ trong bối cảnh xã hội mà toàn cầu thế giới đang khẩn trương đối phó với đại dịch kinh hoàng của thế kỷ 21 thế nhưng những người con đầy tâm huyết của Đức Thế Tôn chỉ trong nửa năm đầu 2021 đã thành lập được hai trang Website Phật học tại hải ngoại : Thư viện Phật Việt tháng 2/2021. do nhóm cư sĩ sáng tạo trang mạng của HĐHP, ( hoangpháp.org ) do ban Báo chí và xuất bản của Hội đồng Hoằng pháp tháng 6/2021 thành lập với sự cố vấn chỉ đạo của HT Thích Tuệ Sỹ Từ ngày có cơ hội tham học lại những hoa trái của Phật Pháp ( không phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa ) , Tôi thật sự đã cắt bỏ rất nhiều sinh hoạt ngày xưa mình yêu thích và để theo kịp với sự phát triển vượt bực theo đà tiến văn minh cho nên đã dùng toàn bộ thời gian còn lại trong ngày của một người thuộc thế hệ 5 X khi về hưu để tìm đọc lại những tác phẩm , biên soạn, dịch thuật của Chư Tôn Đức,qua Danh Tăng, Học giả nghiên cứu khắp nơi .
26/07/2021(Xem: 8141)
Hòa thượng thế danh là Nguyễn Minh Có, pháp danh Huệ Đạt, pháp hiệu Hoàn Thông, sinh năm Đinh Tỵ (1917) triều Khải Định năm đầu, tại ấp Hội An, xã An Phú Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình nông dân nghèo. Thân phụ là cụ ông Nguyễn Văn Phuông, thân mẫu là cụ bà Nguyễn Thị Sửu, Ngài mồ côi cha lúc 13 tuổi. Thiện duyên đưa đến cho hạt mầm Bồ đề trong tâm Ngài phát triển. Năm 1930, trong thân tộc có ông Hồ Trinh Tương, gia tư khá giả, phát tâm phụng sự Tam Bảo, xuất tiền của xây một ngôi chùa, lấy hiệu là Hội Thắng Tự. Ông xuất gia đầu Phật, húy là Tường Ninh, pháp danh Đắc Ngộ, pháp hiệu Niệm Hưng và làm trú trì chùa này để hoằng dương đạo pháp. Ngài được thân mẫu cho phép xuất gia với Sư cụ trú trì chùa Hội Thắng khi vừa mồ côi cha, được ban pháp danh Huệ Đạt. Năm 16 tuổi (1933) Ngài được Bổn sư cho thọ giới Sa Di.
25/07/2021(Xem: 5101)
Mấy ngày nay trên Facebook có chia sẻ lại câu chuyện (nghe nói là xảy ra năm 2014) về cô bé đã “ăn cắp” 2 cuốn sách tại một nhà sách ở Gia Lai. Thay vì cảm thông cho cô bé ham đọc sách, người ta đã bắt cô bé lại, trói 2 tay vào thành lan can, đeo tấm bảng ghi chữ “Tôi là người ăn trộm” trước ngực, rồi chụp hình và bêu rếu lên mạng xã hội. Hành động bất nhân, không chút tình người của những người quản lý ở đây khiến ta nhớ lại câu chuyện đã xảy ra cách đây rất lâu: một cậu bé khoảng 14-15 tuổi cũng ăn cắp sách trong tiệm sách Khai Trí của bác Nguyễn Hùng Trương, mà người đời hay gọi là ông Khai Trí. Khi thấy lùm xùm, do nhân viên nhà sách định làm dữ với cậu bé, một vị khách ôn tồn hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện, tỏ vẻ khâm phục cậu bé vì học giỏi mà không tiền mua sách nên phải ăn cắp, ông đã ngỏ lời xin tha và trả tiền sách cho cậu.
23/07/2021(Xem: 16851)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
22/07/2021(Xem: 3487)
Tạp chí Nghiên cứu Phật học, một trong những tạp chí nghiên cứu học thuật về Phật giáo tại Hoa Kỳ, đã có buổi lễ ra mắt các thành viên trong Ban Biên tập và nhận Quyết định Bản quyền Nghiên cứu Học thuật từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ vào ngày 1 tháng 7 năm 2020, Thầy Thích Giác Chinh, người đảm nhận vai trò Sáng lập kiêm Tổng biên tập, đã nhận được Thư chấp thuận cấp mã số ISSN từ Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ: Tạp chí Nghiên cứu Phật học in: ISSN 2692-7357 Tạp chí Nghiên cứu Phật học Online: eISSN 2692-739X Ngôn ngữ: Tiếng Anh.
11/07/2021(Xem: 6639)
Tháng vừa rồi, tôi dành thời gian để đọc và suy ngẫm về cuốn sách “Tìm bình yên trong gia đình”. Đơn giản bởi tôi và nhiều chúng ta đã dành quá nhiều thời gian hướng ngoại và đôi khi quên mất gia đình. Đôi khi giật mình, đã không đầu tư đủ thời gian cho ngôi nhà của mình, đã không biết cách để bình yên luôn có trong ngôi nhà thân thương của mình. Cảm quan về tựa đề sách và trang bìa của cuốn sách khiến tôi có cảm giác như được bước vào một thế giới với những trang sách tràn ngập nội dung bình yên, giúp tôi được bồng bềnh nhẹ tựa mây. Đọc sách, tôi giật mình: Những bước chân trên cuộc hành trình TÌM BÌNH YÊN TRONG GIA ĐÌNH trong cuốn sách thực sự không hẳn êm đềm như những gì tôi tưởng tượng. Sau khi đọc hết một nửa chương sách. Mình đã phải dừng lại hồi lâu. Bởi vì quá xúc động!
16/06/2021(Xem: 18276)
Thời gian như đến rồi đi, như trồi rồi hụp, thiên thu bất tận, không đợi chờ ai và cũng chẳng nghĩ đến ai. Cứ thế, nó đẩy lùi mọi sự vật về quá khứ và luôn vươn bắt mọi sự vật ở tương lai, mà hiện tại nó không bao giờ đứng yên một chỗ. Chuyển động. Dị thường. Thiên lưu. Thiên biến. Từ đó, con người cho nó như vô tình, như lãng quên, để rồi mất mát tất cả... Đến hôm nay, bỗng nghe tiếng nói của các bạn hữu, các nhà tri thức hữu tâm, có cái nhìn đích thực rằng: “Đạo Phật và Tuổi Trẻ.” “Phật Việt Trong Lòng Tộc Việt.” “Dòng Chảy của Phật Giáo Việt Nam” hay “Khởi Đi Từ Hôm Nay.” Tiếng vang từ những lời nói ấy, đánh động nhóm người chủ trương, đặt bút viết tâm tình này. Đạo Phật có mặt trên quê hương Việt Nam hai ngàn năm qua, đã chung lưng đấu cật theo vận nước lênh đênh, khi lên thác, lúc xuống ghềnh, luôn đồng hành với dân tộc. Khi vua Lê Đại Hành hỏi Thiền sư Pháp Thuận về vận nước như thế nào, dài ngắn, thịnh suy? Thì Thiền sư Pháp Thuận đã thấy được vận nước của quê hương mà
10/06/2021(Xem: 13057)
Biên cương thế giới ngày nay bị thu hẹp với nền viễn thông liên mạng tân tiến, trong khi nhận thức của các thế hệ trẻ lại được mở rộng và sớm sủa hơn, khiến niềm tin và lẽ sống chân thiện dễ bị lung lay, lạc hướng. Thông tin đa chiều với sự cố ý lạc dẫn từ những thế lực hoặc cá nhân vị kỷ, hám lợi, thúc đẩy giới trẻ vào lối sống hời hợt, hiểu nhanh sống vội, ham vui nhất thời, tạo nên hỗn loạn, bất an trên toàn cầu. Trước viễn ảnh đen tối như thế, con đường hoằng pháp của đạo Phật rất cần phải bắt nhịp với đà tiến của nền văn minh hiện đại, nhằm tiếp cận với từng cá nhân, quân bình đời sống xã hội, giới thiệu và hướng dẫn con đường mang lại an vui hạnh phúc cho mình, cho người. Đó là lý do dẫn đến cuộc họp mở rộng giữa chư tôn đức Tăng Ni, Cư sĩ và Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử VN tại hải ngoại và Việt Nam, được tổ chức vào lúc 08:50 PM ngày 08/5/2021 qua chương trình Zoom Online, để rồi đồng thuận tiến đến việc thành lập Hội Đồng Hoằng Pháp. Hội Đồng Hoằng Pháp bao gồm nhiều
10/06/2021(Xem: 4422)
Mỗi lần đến chùa Vạn Phước, dù không chú ý, Phật tử ai ai cũng thấy Thầy Từ An, phó Trụ Trì chùa, mỗi ngày, ngoài những thời kinh, khóa tu, rảnh rỗi Thầy ra sân chùa cặm cụi nhổ cỏ gấu hết cây này đến cây kia, hết chỗ này đến chỗ nọ. Cứ xoay vần như thế ngày này qua tháng khác, năm này sang năm kia rồi khi cỏ gấu mọc lại, Thầy lại tiếp tục nhổ như một hạnh nguyện. Đặc biệt nữa, cứ mỗi lần nhổ xong một cây cỏ gấu, Thầy thường lẩm nhẩm: “Nhổ này một cây phiền não..., nhổ này một cây phiền não...“. Nhưng Thầy nhổ không bao giờ hết, vì cỏ gấu vốn là một loại cỏ dại, đã là cỏ thì rất khó tiêu diệt. Nếu xịt thuốc chỉ cháy lá hoa ở phần trên, rễ vẫn còn ở phần dưới, thậm chí có nhổ tận gốc nhưng chỉ cần sót lại một chút thân, rễ, một thời gian sau cỏ vẫn mọc lại như thường; chỉ trừ duy nhất tráng xi măng lót gạch, cỏ không còn đất sống may ra mới dứt sạch.
20/05/2021(Xem: 12575)
Kinh Đại Bát Nhã có tất cả 600 quyển, gồm 5 triệu chữ trong 25 ngàn câu, là bộ kinh khổng lồ trong tàng kinh cát của Phật Giáo Đại Thừa, do Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 22 năm. Pháp Sư Huyền Trang dịch từ tiếng Phạn sang Hán và Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm (1911-2003) dịch từ Hán sang Việt. Lão Cư Sĩ Thiện Bửu đã dành 10 năm lao nhọc, vừa học Kinh vừa viết luận bản này để xiển dương tư tưởng Bát Nhã theo tinh thần truyền bá và lưu thông. Ông đã khiêm tốn tự nhủ rằng, không biết những gì mình viết có phù hợp với tinh thần của bộ Đại Bát Nhã Ba La Mật hay không, nhưng chúng tôi cho rằng việc làm của Lão Cư Sĩ là việc cần làm và thiết thực hữu ích, ông đã giúp tóm tắt ý nghĩa và chiết giải những chỗ chính yếu của Kinh. Có thể nói đây là bản sớ giải đồ sộ thứ hai (trọn bộ 8 tập) về Kinh Đại Bát Nhã, theo sau Đại Trí Độ Luận (5 tập) ở Việt Nam. Xin tán thán công đức của Lão Cư Sĩ đã đặt viên đá đầu tiên, để khuyến khích cho những hành giả khác, cùng phát tâm xây dựng nền mó
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]