Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ham muốn là nguồn gốc của Luân Hồi Sanh Tử. Thử tìm hiểu 8 bài kệ trong bài kinh “Hang Động” còn gọi là Ưu Điền Vương Kinh.

26/06/202208:25(Xem: 3383)
Ham muốn là nguồn gốc của Luân Hồi Sanh Tử. Thử tìm hiểu 8 bài kệ trong bài kinh “Hang Động” còn gọi là Ưu Điền Vương Kinh.

hoa xuan 2022 (3)

Ham muốn là nguồn gốc của Luân Hồi Sanh Tử. Thử tìm hiểu 8 bài kệ trong bài kinh “Hang Động” còn gọi là Ưu Điền Vương Kinh.

Lời nói đầu:
Từ lâu ta đã được nghe từ Đức Phật dạy: “Ít ham muốn, bằng lòng với một nếp sống giản dị và lành mạnh để có thì giờ sống sâu sắc từng phút giây của sự sống hàng ngày, có khả năng hiểu biết, thương yêu, chăm sóc và làm hạnh phúc cho những người chung quanh, đó là bí quyết của hạnh phúc chân thật”.
Theo đó quan điểm Phật giáo có nghĩa là “Đi đôi với thỏa mãn và tham dục, cái tâm tìm cầu theo chỗ đòi hỏi được thỏa mãn làm nhân cho sự tái sinh”.. vì sao vậy ? Chính vì phát tâm mong cầu mà tìm kiếm sự thỏa mãn và vì không được thỏa mãn nên cứ gắng sức tìm cầu mãi cho đến vô cùng, đó là cái nhân dẫn đến luân hồi sanh tử.
Tìm thấy trong Việt Nam tự điển: “Dục là muốn, lòng tham muốn riêng của mình”.
Nhân đọc được trọn bộ sách “ĐẠO BỤT NGUYÊN CHẤT - KINH NGHĨA TÚC” đó HT Thích Nhất Hạnh giảng tai Đạo Tràng Mai Thôn 2011, người viết thấy từ lúc ban đầu, kinh điển đã thật ảo diệu quá đủ rồi. Chỉ cần học thuộc 8 bài kệ này thôi cũng giúp ta tìm thấy chân lý trong cuộc sống .
Kính mời các bạn cùng xem và chiêm nghiệm mà trong đó kết cục đại ý của bài kinh muốn nhắn nhủ rằng “ BẤT KỲ MỘT AI BỊ NHỐT VÀO HANG ĐỘNG NGŨ DỤC SẼ KHÔNG BAO GIỜ TÌM THẤY RA ĐƯỢC CON ĐƯỜNG CHÁNH ĐẠO THÊNH THANG” vì Ham Muốn là hang động giam hãm con người , là nguồn gốc của luân hồi sinh tử là sợi giây trói buộc làm cho con người mất hết tự do.
Kinh Hang Động Ái Dục
(Ưu Điền Vương Kinh) Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ nhì, Đại Tạng Tân Tu 198tương đương với Guhatthaka Sutta, Sutta-Nipàta 772-779 nằm trong chương bốn của Kinh Tập 1 trong số 15 kinh Tiểu Bộ .
Sutta-Nipatà là kinh thứ 5, trong 15 kinh thuộc Bộ Khuddaka Nipàta tức là Tiểu Bộ Kinh do Giáo Sư Trần Phương Lan dịch và được HT Thích Minh Châu viết lời giới thiệu
Bối Cảnh
Kinh này tên là kinh Ưu Điền Vương (Phạn dịch là Udayana hay Udena). Khung cảnh dựng lên: Vua này đi chơi núi với các cung nữ. Trên núi có một vị khất sĩ sống khổ hạnh trong một cái động đá, tóc tai ra dài, áo quần tơi tả. Một cô cung nữ thấy thế sợ hãi la lên rằng có quỷ. Vua giận dữ muốn trừng phạt vị khất sĩ. Có một vị thiên giả muốn cứu mạng cho vị khất sĩ mới biến thành một con gấu lớn đi tới, vua phải bỏ chạy. Vị khất sĩ thoát chết về bạch lại với Bụt. Bụt kể chuyện tiền thân: trong kiếp trước vị khất sĩ đã làm gì đó cho nên nay mới suýt bị nạn và Bụt dạy kinh này.
 
Bài kinh gồm 8 câu kệ và có 3 hình ảnh rất sống động trong kinh này, đó là hình ảnh của:
1-một cơn lũ lụt, tượng trưng cho tham dục, kéo ta đi;
2-hình ảnh của một con cá thiếu nước, tượng trưng cho khổ đau và hệ lụy
3-hình ảnh của một mũi tên cắm vào thân thể, tượng trưng cho tham dục.
 
Sau đây là 8 bài kệ và đại ý được diễn dịch
Bài kệ 1
Hệ xá đa sở nguyện
Trú kỳ tà sở giá
Dĩ già viễn chánh đạo
Dục niệm nan khả tuệ
Bị nhốt vào cái hang động của đủ thứ ham muốn, bị tri giác sai lầm của mình che lấp, người ta đi tách ra khỏi con đường chánh đạo. Cái nhớ tưởng về dục vọng của mình làm cho mình khó có cơ hội thành tựu được tuệ giác.
Bài kệ 2
Tọa khả hệ bào thai
Hệ sắc kiên tuy giải
Bất quán khứ lai pháp 
Tuệ thị diệc đoạn bổ
Vướng vào vòng sắc dục là vướng vào vòng sinh tử. Một khi sợi dây sắc dục đã cột vào kiên cố quá thì khó có thể tháo gỡ ra. Nếu không biết quán chiếu cái tới và cái đi của các pháp, nếu không thành tựu được tuệ giác thì không thể nào chặt đứt được gốc rễ của tham dục.
Bài kệ 3
Tham dục dĩ si manh 
Bất tri tà lợi tăng 
Tọa dục bị thống bi 
Tùng thị đương hà y 
Tham dục được phát sinh từ mù quáng và si mê. Người ta không biết rằng chạy theo tham dục thì cái mê lầm của mình càng ngày càng lớn, rằng sống trong tham dục thì phải gánh chịu nhiều thống khổ và bi ai, và trong khi chịu đựng, người ta chẳng biết phải nương tựa vào đâu cho bớt khổ.
Bài kệ 4
Nhân sanh đương giác thị 
Thế tà nan khả y 
Xả chánh bất trước niệm 
Mạng đoản tử thậm cận 
Con người phải thức tỉnh và trở về với giây phút hiện tại. Phải thấy rằng thế gian đang sống trong mê lầm, ta không thể nương tựa vào cấu trúc của thế gian và đi theo cái đà của nó. Phải quán niệm về buông bỏ, về sự trở về với con đường chính, về sự thoát ly vướng mắc. Phải nhớ mạng sống là ngắn ngủi và quán chiếu cái chết gần kề.
Bài kệ 5
Triển chuyển thị thế khổ
Sanh tử dục khê lưu 
Tử thời nãi niệm oán 
Tùng dục để thai cực
Cuộc đời đi từ khổ đau này đến khổ đau khác, cái ham muốn trong cõi sinh tử đang lan tràn như một cơn lũ lụt. Khi cái chết đến, oán thù và sợ hãi phát sinh, và năng lượng của cái dục ấy sẽ kéo ta đi luân hồi.
Bài kệ 6
Tự khả thọ thống thân 
Lưu đoạn thiểu thủy ngư 
Dĩ kiến đoạn thân khả
Tam thế phục hà tăng 
Người đang nhận chịu khổ đau cảm thấy mình như một con cá thiếu nước, dòng nước chảy vào hồ đã bị cắt đứt. Thấy như thế là có thể dừng lại được và sẽ không còn có khuynh hướng muốn đi về trong ba cõi.
Bài kệ 7
Lực dục ư lưỡng diện 
Bỉ khả giác mạc trước 
Mạc hành sở tự oán 
Kiến văn mạc tự ô 
Đừng bị kẹt vào một trong hai cực đoan. Những gì mà ta tiếp xúc nếu biết là chúng có tính cách nguy hại thì ta phải quyết tâm buông bỏ, đừng vướng víu. Đừng làm một điều gì để sau này ta sẽ oán trách chính ta. Phải biết từ khước nhìn và nghe những gì có thể làm cho tự thân ta ô nhiễm.
Bài kệ 8
Giác tưởng quán độ hải 
Hữu ngã tôn bất kế 
Lực hành bạt tiêm xuất 
Trí sử nãi vô nghi
Phải sử dụng những giáo pháp của đạo giác ngộ để quán chiếu và vượt qua biển khổ. Vị mâu ni buông bỏ những lo toan, trau chuốt cho cái ngã và tu tập tinh chuyên để nhổ cho được mũi tên tham dục ra khỏi thân mình. Làm như thế vị ấy đạt được tới chỗ không còn nghi nan.
Lời kết:
Con người chỉ tìm cách chuyển hoá để làm chủ những năng lực ở ngoại giới mà chưa kiểm soát được năng lực ở bên trong. Đó là năng lực của Dục Vọng.
Lòng tham dục của con người chưa bao giờ ngừng nghỉ chính vì vậy mà Ta đang sống trong cõi Dục.
Lòng ham muốn càng mạnh thì chấp ngã, chấp thủ càng mạnh. Đây chính là động cơ, là nghiệp lực dẫn đến tái sinh từ đời này sang đời khác. Như vậy, cội rễ của mọi tệ nạn xã hội trộm cướp, chiến tranh… đều xuất phát từ lòng tham lam hay ái dục. Ô nhiễm môi trường, ô nhiễm xã hội bắt nguồn từ nội tâm con người bị ô nhiễm. Và đó chính là nguồn gốc gây ra mọi phiền não khổ đau cho con người trong cuộc sống.
Ta thường được dạy rằng: khi nào chuyển hoá được năng lực của Tâm nghĩa là chuyển được THAM, SÂN, SI thành GIỚI , ĐỊNH, TUỆ ….Đây cũng là phương pháp chuyển hoá sự Khổ đau hay nói một cách khác “Nếu muốn hết Khổ cần phải chuyển hoá năng lực tâm linh”.
Người viết đã phối hợp lời dạy về Cảm Thọ từ Đệ nhất Trí Tuệ ngài Xá Lợi Phất đã dạy rằng: “Không có cảm thọ mới chính thực là Hạnh Phúc”
Ta sẽ hiểu rằng “Nếu không có cảm thọ thì không có KHỔ”. Vì sao vậy? Vì Cảm thọ là Nhận vào, thu nạp một cảm giác từ Cái Tôi hiện hữu hoặc Của Tôi .
Trong kinh Đại Bát Nhã, Đức Phật đã dạy: Cái Thọ nơi phàm phu là “ Thu nạp (nhận lãnh vào mình) những thăng trầm từ cảnh trần do vậy Tâm luôn bị dao động”. Người phàm phu chỉ nhạy cảm đối với những gì Của Tôi và Tôi nên cảm thọ của họ hết sức hạn chế và dễ gây đau khổ cho mình và người.
Còn cảm thọ có nghĩa là còn sự chưa thỏa mãn. Do vậy HT Thích Nhất Hạnh đã đề nghị một trong những phương pháp thực tập là TRÁNH NHÌN và TRÁNH NGHE những gì có thể tưới tẩm hạt giống tham dục trong ta.
Phương pháp khác là quán chiếu cái tới và cái đi của các pháp.
Phương pháp thứ ba là thực tập con đường trung đạo, đừng bị kẹt vào một trong hai cực đoan: hoặc kham khổ quá, hoặc hưởng thụ nhiều.
Thiếu ý thức và tham đắm dục lạc, con người lại lao vào vòng xoáy của ngũ dục, những lối sống xa hoa truỵ lạc.
Tham đắm dục lạc không chỉ riêng ở năm loại là: tài, sắc, danh, thực, thùy mà nó bàng bạc khắp không gian và thời gian, chi phối cả thân thể lẫn tâm hồn của con người.
Sự biểu hiện của tham đắm dục lạc rất đa dạng, rất phong phú. Nó là chiếc bóng có mặt trong cách nghĩ, cách làm của mỗi con người, luôn chi phối chúng sanh trong lục đạo. Phật dạy:
 “Người đắm say ái dục,
  Tự lao mình xuống dòng,
  Như nhện sa lưới dệt…”
Hạnh phúc chỉ có mặt trên thế giới này khi và chỉ khi con người vứt bỏ được những nhu cầu thái quá thuộc ham muốn cá nhân. Ham muốn nhiều thì vất vả, khổ sở nhiều. Đó là quy luật. Con người cứ tưởng rằng họ đạt được nhiều tiền bạc hay địa vị cao là họ thỏa mãn, họ có hạnh phúc. Nhưng thực tế thì vui ít, hạnh phúc ít mà buồn sầu đau khổ thì nhiều. Cuối cùng con người cũng nhận ra chân lý đơn giản này khi họ buộc phải từ bỏ tất cả, như khi chết chẳng hạn…
Nỗi đau khổ của cuộc đời giống như nồi nước đang sôi, ngọn lửa làm cho nước sôi là ngọn lửa tham dục. Ngọn lửa càng lớn, nước càng sôi và càng cạn kiệt;
Cũng như cuộc sống này bao gồm ngày và đêm, sống và chết, hạnh phúc và khổ đau. Người trưởng thành phải là người nhận thức được cả hai mặt này của cuộc sống. Nếu bạn luôn hạnh phúc, bạn không nhận ra mình hạnh phúc cho đến khi niềm hạnh phúc vụt khỏi tầm tay, đau khổ bủa vây lấy bạn, bạn mới nhận ra hạnh phúc là như thế nào.
Thật ra những tình huống của cuộc đời chỉ là cơ hội giúp mình nhận diện được cái Ngã vô minh ái dục, còn bản thân những tình huống bất khả …đó chỉ là hiện tượng, là vô thường, khổ, vô ngã . Hãy chấp nhận bất khả, không trốn chạy, không đối kháng mà chỉ thấy được mọi sự ở đời đều có lý do tồn tại của nó.
Kính trân trọng
Si mê, tham ái khiến con người không nhận thức
Hậu quả tai hại do mình tự tạo ra
Nào có điểm dừng với ảo ảnh xa hoa
Không bao giờ thỏa mãn khi dục đang chinh phục
Kìa…tranh đấu quyết liệt chỉ để giành giật
Bảo lòng ngự trị …đổ vỡ chia ly
Tham, sân, si điều khiển ý tưởng hành vi
Bị trói buộc …giá trị đạo đức suy thoái,
Ham muốn … Ôi ! Năng lực mi quá mạnh, tinh quái !
Luôn ngủ ngầm trong tất cả mọi người
Cội nguồn của bao bất hạnh trong đời
Là nghiệp lực dẫn tái sinh luân hồi sanh tử
Kính mời xem kinh Hang Động …suy tư tháo gỡ !!!
Huệ Hương




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2016(Xem: 12154)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16580)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11464)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7531)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 20586)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4424)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4174)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3603)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13259)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
24/05/2016(Xem: 3122)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]