Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ham muốn là nguồn gốc của Luân Hồi Sanh Tử. Thử tìm hiểu 8 bài kệ trong bài kinh “Hang Động” còn gọi là Ưu Điền Vương Kinh.

26/06/202208:25(Xem: 3378)
Ham muốn là nguồn gốc của Luân Hồi Sanh Tử. Thử tìm hiểu 8 bài kệ trong bài kinh “Hang Động” còn gọi là Ưu Điền Vương Kinh.

hoa xuan 2022 (3)

Ham muốn là nguồn gốc của Luân Hồi Sanh Tử. Thử tìm hiểu 8 bài kệ trong bài kinh “Hang Động” còn gọi là Ưu Điền Vương Kinh.

Lời nói đầu:
Từ lâu ta đã được nghe từ Đức Phật dạy: “Ít ham muốn, bằng lòng với một nếp sống giản dị và lành mạnh để có thì giờ sống sâu sắc từng phút giây của sự sống hàng ngày, có khả năng hiểu biết, thương yêu, chăm sóc và làm hạnh phúc cho những người chung quanh, đó là bí quyết của hạnh phúc chân thật”.
Theo đó quan điểm Phật giáo có nghĩa là “Đi đôi với thỏa mãn và tham dục, cái tâm tìm cầu theo chỗ đòi hỏi được thỏa mãn làm nhân cho sự tái sinh”.. vì sao vậy ? Chính vì phát tâm mong cầu mà tìm kiếm sự thỏa mãn và vì không được thỏa mãn nên cứ gắng sức tìm cầu mãi cho đến vô cùng, đó là cái nhân dẫn đến luân hồi sanh tử.
Tìm thấy trong Việt Nam tự điển: “Dục là muốn, lòng tham muốn riêng của mình”.
Nhân đọc được trọn bộ sách “ĐẠO BỤT NGUYÊN CHẤT - KINH NGHĨA TÚC” đó HT Thích Nhất Hạnh giảng tai Đạo Tràng Mai Thôn 2011, người viết thấy từ lúc ban đầu, kinh điển đã thật ảo diệu quá đủ rồi. Chỉ cần học thuộc 8 bài kệ này thôi cũng giúp ta tìm thấy chân lý trong cuộc sống .
Kính mời các bạn cùng xem và chiêm nghiệm mà trong đó kết cục đại ý của bài kinh muốn nhắn nhủ rằng “ BẤT KỲ MỘT AI BỊ NHỐT VÀO HANG ĐỘNG NGŨ DỤC SẼ KHÔNG BAO GIỜ TÌM THẤY RA ĐƯỢC CON ĐƯỜNG CHÁNH ĐẠO THÊNH THANG” vì Ham Muốn là hang động giam hãm con người , là nguồn gốc của luân hồi sinh tử là sợi giây trói buộc làm cho con người mất hết tự do.
Kinh Hang Động Ái Dục
(Ưu Điền Vương Kinh) Nghĩa Túc Kinh, kinh thứ nhì, Đại Tạng Tân Tu 198tương đương với Guhatthaka Sutta, Sutta-Nipàta 772-779 nằm trong chương bốn của Kinh Tập 1 trong số 15 kinh Tiểu Bộ .
Sutta-Nipatà là kinh thứ 5, trong 15 kinh thuộc Bộ Khuddaka Nipàta tức là Tiểu Bộ Kinh do Giáo Sư Trần Phương Lan dịch và được HT Thích Minh Châu viết lời giới thiệu
Bối Cảnh
Kinh này tên là kinh Ưu Điền Vương (Phạn dịch là Udayana hay Udena). Khung cảnh dựng lên: Vua này đi chơi núi với các cung nữ. Trên núi có một vị khất sĩ sống khổ hạnh trong một cái động đá, tóc tai ra dài, áo quần tơi tả. Một cô cung nữ thấy thế sợ hãi la lên rằng có quỷ. Vua giận dữ muốn trừng phạt vị khất sĩ. Có một vị thiên giả muốn cứu mạng cho vị khất sĩ mới biến thành một con gấu lớn đi tới, vua phải bỏ chạy. Vị khất sĩ thoát chết về bạch lại với Bụt. Bụt kể chuyện tiền thân: trong kiếp trước vị khất sĩ đã làm gì đó cho nên nay mới suýt bị nạn và Bụt dạy kinh này.
 
Bài kinh gồm 8 câu kệ và có 3 hình ảnh rất sống động trong kinh này, đó là hình ảnh của:
1-một cơn lũ lụt, tượng trưng cho tham dục, kéo ta đi;
2-hình ảnh của một con cá thiếu nước, tượng trưng cho khổ đau và hệ lụy
3-hình ảnh của một mũi tên cắm vào thân thể, tượng trưng cho tham dục.
 
Sau đây là 8 bài kệ và đại ý được diễn dịch
Bài kệ 1
Hệ xá đa sở nguyện
Trú kỳ tà sở giá
Dĩ già viễn chánh đạo
Dục niệm nan khả tuệ
Bị nhốt vào cái hang động của đủ thứ ham muốn, bị tri giác sai lầm của mình che lấp, người ta đi tách ra khỏi con đường chánh đạo. Cái nhớ tưởng về dục vọng của mình làm cho mình khó có cơ hội thành tựu được tuệ giác.
Bài kệ 2
Tọa khả hệ bào thai
Hệ sắc kiên tuy giải
Bất quán khứ lai pháp 
Tuệ thị diệc đoạn bổ
Vướng vào vòng sắc dục là vướng vào vòng sinh tử. Một khi sợi dây sắc dục đã cột vào kiên cố quá thì khó có thể tháo gỡ ra. Nếu không biết quán chiếu cái tới và cái đi của các pháp, nếu không thành tựu được tuệ giác thì không thể nào chặt đứt được gốc rễ của tham dục.
Bài kệ 3
Tham dục dĩ si manh 
Bất tri tà lợi tăng 
Tọa dục bị thống bi 
Tùng thị đương hà y 
Tham dục được phát sinh từ mù quáng và si mê. Người ta không biết rằng chạy theo tham dục thì cái mê lầm của mình càng ngày càng lớn, rằng sống trong tham dục thì phải gánh chịu nhiều thống khổ và bi ai, và trong khi chịu đựng, người ta chẳng biết phải nương tựa vào đâu cho bớt khổ.
Bài kệ 4
Nhân sanh đương giác thị 
Thế tà nan khả y 
Xả chánh bất trước niệm 
Mạng đoản tử thậm cận 
Con người phải thức tỉnh và trở về với giây phút hiện tại. Phải thấy rằng thế gian đang sống trong mê lầm, ta không thể nương tựa vào cấu trúc của thế gian và đi theo cái đà của nó. Phải quán niệm về buông bỏ, về sự trở về với con đường chính, về sự thoát ly vướng mắc. Phải nhớ mạng sống là ngắn ngủi và quán chiếu cái chết gần kề.
Bài kệ 5
Triển chuyển thị thế khổ
Sanh tử dục khê lưu 
Tử thời nãi niệm oán 
Tùng dục để thai cực
Cuộc đời đi từ khổ đau này đến khổ đau khác, cái ham muốn trong cõi sinh tử đang lan tràn như một cơn lũ lụt. Khi cái chết đến, oán thù và sợ hãi phát sinh, và năng lượng của cái dục ấy sẽ kéo ta đi luân hồi.
Bài kệ 6
Tự khả thọ thống thân 
Lưu đoạn thiểu thủy ngư 
Dĩ kiến đoạn thân khả
Tam thế phục hà tăng 
Người đang nhận chịu khổ đau cảm thấy mình như một con cá thiếu nước, dòng nước chảy vào hồ đã bị cắt đứt. Thấy như thế là có thể dừng lại được và sẽ không còn có khuynh hướng muốn đi về trong ba cõi.
Bài kệ 7
Lực dục ư lưỡng diện 
Bỉ khả giác mạc trước 
Mạc hành sở tự oán 
Kiến văn mạc tự ô 
Đừng bị kẹt vào một trong hai cực đoan. Những gì mà ta tiếp xúc nếu biết là chúng có tính cách nguy hại thì ta phải quyết tâm buông bỏ, đừng vướng víu. Đừng làm một điều gì để sau này ta sẽ oán trách chính ta. Phải biết từ khước nhìn và nghe những gì có thể làm cho tự thân ta ô nhiễm.
Bài kệ 8
Giác tưởng quán độ hải 
Hữu ngã tôn bất kế 
Lực hành bạt tiêm xuất 
Trí sử nãi vô nghi
Phải sử dụng những giáo pháp của đạo giác ngộ để quán chiếu và vượt qua biển khổ. Vị mâu ni buông bỏ những lo toan, trau chuốt cho cái ngã và tu tập tinh chuyên để nhổ cho được mũi tên tham dục ra khỏi thân mình. Làm như thế vị ấy đạt được tới chỗ không còn nghi nan.
Lời kết:
Con người chỉ tìm cách chuyển hoá để làm chủ những năng lực ở ngoại giới mà chưa kiểm soát được năng lực ở bên trong. Đó là năng lực của Dục Vọng.
Lòng tham dục của con người chưa bao giờ ngừng nghỉ chính vì vậy mà Ta đang sống trong cõi Dục.
Lòng ham muốn càng mạnh thì chấp ngã, chấp thủ càng mạnh. Đây chính là động cơ, là nghiệp lực dẫn đến tái sinh từ đời này sang đời khác. Như vậy, cội rễ của mọi tệ nạn xã hội trộm cướp, chiến tranh… đều xuất phát từ lòng tham lam hay ái dục. Ô nhiễm môi trường, ô nhiễm xã hội bắt nguồn từ nội tâm con người bị ô nhiễm. Và đó chính là nguồn gốc gây ra mọi phiền não khổ đau cho con người trong cuộc sống.
Ta thường được dạy rằng: khi nào chuyển hoá được năng lực của Tâm nghĩa là chuyển được THAM, SÂN, SI thành GIỚI , ĐỊNH, TUỆ ….Đây cũng là phương pháp chuyển hoá sự Khổ đau hay nói một cách khác “Nếu muốn hết Khổ cần phải chuyển hoá năng lực tâm linh”.
Người viết đã phối hợp lời dạy về Cảm Thọ từ Đệ nhất Trí Tuệ ngài Xá Lợi Phất đã dạy rằng: “Không có cảm thọ mới chính thực là Hạnh Phúc”
Ta sẽ hiểu rằng “Nếu không có cảm thọ thì không có KHỔ”. Vì sao vậy? Vì Cảm thọ là Nhận vào, thu nạp một cảm giác từ Cái Tôi hiện hữu hoặc Của Tôi .
Trong kinh Đại Bát Nhã, Đức Phật đã dạy: Cái Thọ nơi phàm phu là “ Thu nạp (nhận lãnh vào mình) những thăng trầm từ cảnh trần do vậy Tâm luôn bị dao động”. Người phàm phu chỉ nhạy cảm đối với những gì Của Tôi và Tôi nên cảm thọ của họ hết sức hạn chế và dễ gây đau khổ cho mình và người.
Còn cảm thọ có nghĩa là còn sự chưa thỏa mãn. Do vậy HT Thích Nhất Hạnh đã đề nghị một trong những phương pháp thực tập là TRÁNH NHÌN và TRÁNH NGHE những gì có thể tưới tẩm hạt giống tham dục trong ta.
Phương pháp khác là quán chiếu cái tới và cái đi của các pháp.
Phương pháp thứ ba là thực tập con đường trung đạo, đừng bị kẹt vào một trong hai cực đoan: hoặc kham khổ quá, hoặc hưởng thụ nhiều.
Thiếu ý thức và tham đắm dục lạc, con người lại lao vào vòng xoáy của ngũ dục, những lối sống xa hoa truỵ lạc.
Tham đắm dục lạc không chỉ riêng ở năm loại là: tài, sắc, danh, thực, thùy mà nó bàng bạc khắp không gian và thời gian, chi phối cả thân thể lẫn tâm hồn của con người.
Sự biểu hiện của tham đắm dục lạc rất đa dạng, rất phong phú. Nó là chiếc bóng có mặt trong cách nghĩ, cách làm của mỗi con người, luôn chi phối chúng sanh trong lục đạo. Phật dạy:
 “Người đắm say ái dục,
  Tự lao mình xuống dòng,
  Như nhện sa lưới dệt…”
Hạnh phúc chỉ có mặt trên thế giới này khi và chỉ khi con người vứt bỏ được những nhu cầu thái quá thuộc ham muốn cá nhân. Ham muốn nhiều thì vất vả, khổ sở nhiều. Đó là quy luật. Con người cứ tưởng rằng họ đạt được nhiều tiền bạc hay địa vị cao là họ thỏa mãn, họ có hạnh phúc. Nhưng thực tế thì vui ít, hạnh phúc ít mà buồn sầu đau khổ thì nhiều. Cuối cùng con người cũng nhận ra chân lý đơn giản này khi họ buộc phải từ bỏ tất cả, như khi chết chẳng hạn…
Nỗi đau khổ của cuộc đời giống như nồi nước đang sôi, ngọn lửa làm cho nước sôi là ngọn lửa tham dục. Ngọn lửa càng lớn, nước càng sôi và càng cạn kiệt;
Cũng như cuộc sống này bao gồm ngày và đêm, sống và chết, hạnh phúc và khổ đau. Người trưởng thành phải là người nhận thức được cả hai mặt này của cuộc sống. Nếu bạn luôn hạnh phúc, bạn không nhận ra mình hạnh phúc cho đến khi niềm hạnh phúc vụt khỏi tầm tay, đau khổ bủa vây lấy bạn, bạn mới nhận ra hạnh phúc là như thế nào.
Thật ra những tình huống của cuộc đời chỉ là cơ hội giúp mình nhận diện được cái Ngã vô minh ái dục, còn bản thân những tình huống bất khả …đó chỉ là hiện tượng, là vô thường, khổ, vô ngã . Hãy chấp nhận bất khả, không trốn chạy, không đối kháng mà chỉ thấy được mọi sự ở đời đều có lý do tồn tại của nó.
Kính trân trọng
Si mê, tham ái khiến con người không nhận thức
Hậu quả tai hại do mình tự tạo ra
Nào có điểm dừng với ảo ảnh xa hoa
Không bao giờ thỏa mãn khi dục đang chinh phục
Kìa…tranh đấu quyết liệt chỉ để giành giật
Bảo lòng ngự trị …đổ vỡ chia ly
Tham, sân, si điều khiển ý tưởng hành vi
Bị trói buộc …giá trị đạo đức suy thoái,
Ham muốn … Ôi ! Năng lực mi quá mạnh, tinh quái !
Luôn ngủ ngầm trong tất cả mọi người
Cội nguồn của bao bất hạnh trong đời
Là nghiệp lực dẫn tái sinh luân hồi sanh tử
Kính mời xem kinh Hang Động …suy tư tháo gỡ !!!
Huệ Hương




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/09/2020(Xem: 19689)
Thư gởi Chư Thiện tri thức trong và ngoài nước..nhân Tết Nhi Đồng 2020 (HT Thích Tuệ Sỹ)
24/09/2020(Xem: 8912)
Thật là một đại duyên cho những ai là Phật tử tại gia như tôi lại được nghe lời chỉ dạy vừa tâm tình của Sư Phụ Viên Minh vào ngày thứ bảy của khoá thiền khoá 20 (20/9/2020) tại tổ đình Bửu Long như sau : " Ai cũng cho Thầy là người " ba phải "vì Thầy thường trích dẫn những ý tưởng của các Tông phái khác , nhưng đúng ra phải gọi Thầy là "người chục phải "vì ở mỗi Tông phái nào Thầy đều nhìn thấy những điểm hay, tốt và vì vậy Thầy chưa bao giờ phân biệt tông phái nào cả chỉ là nhập gia tuỳ tục thế thôi , vô ngại ...
21/09/2020(Xem: 12642)
Một trong những điểm đặc thù từ giáo pháp của Đức Phật chính là tinh thần Trung đạo - không rơi vào cực đoan khổ hạnh ép xác hay thú hướng dục vọng. Biện chính giáo pháp để làm lộ rõ con đường Trung đạo cũng là một phương thức hoằng pháp. Có thể sự biện chính chỉ là quan kiến cá nhân và đôi khi đi xa hơn vấn đề cần biện chính, nhất là những biện chính liên quan đến lát cắt của một phần tổng thể văn bản. Dẫu vậy, toàn bộ nội dung bài viết vẫn hướng đến mục đích làm sáng tỏ thêm con đường Trung đạo, tránh sự hiểu nhầm đáng tiếc đối với những Phật tử sơ cơ. Nguyệt San Giác Ngộ xin trân trọng giới thiệu bài viết đến với quý độc giả. NSGN Bài “Quan điểm của Phật giáo về vấn đề kinh tế” của Hòa thượng Tinh Vân (Phước Tâm dịch, Nguyệt san Giác Ngộ số 189, tháng 12-2011, trang 36), có một đoạn viết:
29/08/2020(Xem: 2622)
Khi được một bằng hữu tặng cho một quyển sách hay và quý, bạn vui vẻ nhận lấy, khen sách trình bày đẹp, đề tài lạ lẫm hấp dẫn, cảm ơn, rồi nhập vào hàng hàng lớp lớp những sách báo trên kệ tủ của mình, nói là từ từ khi nào rảnh rang sẽ đọc sau, rồi quên bẳng luôn, không sờ đụng đến lần nào nữa. Nếu vị bằng hữu đó mà biết được bạn đã đối xử với món quà tặng văn hóa, món quà tinh thần và nghĩa tình kiểu như vậy, chắc vị đó sẽ buồn lắm. Làm người khác buồn, là bạn đã mang tội. Trong trường hợp vị bằng hữu đó không hề hay biết gì hết, bạn vẫn mang tội, chứ không phải vô tội. Tội đó là tội xem thường.
27/08/2020(Xem: 5672)
Kính chiếu yêu ma bài viết của Cư Sĩ Huệ Hương (ở Melbourne, Úc Châu) Do Phật tử Diệu Danh (Hannover, Đức Quốc diễn đọc) Mười năm về trước khi đọc " CỬA TÙNG ĐÔI CÁNH GÀI " của Sư Ông Làng Mai Thích Nhất Hạnh tôi vẫn không hề nghĩ đến có ngày mình phải dùng kính chiếu yêu này ... không phải cho người khác bên ngoài mà chính là dùng để soi rọi vào những con ma đang ẩn núp trong rừng tâm của tôi quá chằng chịt và rậm rạp nơi mà tập khí được chôn vùi và đã trở nên hoang dại đến nỗi rất khó để tháo gở được những rễ dây đã bám sâu trong đất Tâm này
14/08/2020(Xem: 5595)
Thuở trung học, tôi rất yêu môn toán. Những con số cộc lốc khô khan nhưng rõ ràng 1 với 1 là 2 đi vào đầu tôi êm ái nhẹ nhàng hơn những bài văn thơ trữ tình, ướt át. Tôi rất dốt, thường đội sổ môn Việt văn. Giữa khi một đề bài Thầy, Cô đưa ra: “Hãy tả tâm trạng cảm giác của em khi một ngày dự định đi chơi mà bị mưa không đi được„ Bạn tôi, đứa “sơ mi„ (nhất điểm) luận văn khi phát bài luôn được đọc cho cả lớp nghe, viết: “Thế là hôm nay em phải ở lại nhà vì một trận mưa như trút nước. Mưa càng lúc càng nặng hạt, dai dẳng suốt từ chiều hôm qua. Bầu trời vẫn còn u ám, xám xịt, không có dấu hiệu của một trận mưa sắp dứt, một ngày quang đãng. Em buồn nằm nhà, cuộn mình trong chăn nghe bên ngoài mưa rơi tí tách, gõ nhịp trên máng xối„ Thì bài của tôi: “Đùng...đùng...tiếng sét nổ vang. Nhìn ra bên ngoài bầu trời đen thui rồi nước ở đâu từ trên máng xối đổ xuống ào ào. Nước mưa chứ ai. Ghét dễ sợ. Không được đi chơi như dự định rồi. Buồn thỉu buồn thiu„ Bài viết cộc lốc khô cứng như cục đá. Ng
13/08/2020(Xem: 11473)
Ngày anh ra đi, tôi không được biết. Một tuần sau, Xuân Trang gọi điện thoại từ Mỹ báo tin anh đã mất. Tôi lên đồi thông Phương Bối, chỉ nhìn thấy anh ngồi trên bàn thờ với nụ cười châm biếm, ngạo nghễ mà tôi thường gặp mỗi lần lên thăm chị Phượng và các cháu. Tôi được biết gia đình anh Nguyễn đức Sơn qua sư cô Chân Không. Dạo ấy, khoảng năm 1986, sư cô có nhờ tôi cứ 3 tháng mang số tiền 100 usd lên cho gia đình anh. Tới Bảo Lộc tôi nhờ 2 người con của Bác Toàn dẫn tôi lên gặp anh. Trước khi đi, bác Toàn có can ngăn tôi: Cô đừng đi, đường lên Phương Bối khúc khuỷu, cây rừng rậm rạp khó đi, hơn nữa ông Sơn kỳ quái lắm, ông ấy không muốn nhận sự giúp đỡ, mà nếu có nhận, ông ấy không cảm ơn, còn chửi người cho nữa. Tôi mỉm cười: Không sao đâu, tôi chịu được mà! Đường lên Phương Bối khó đi. Chúng tôi lách qua đám tre rừng, thật vất vả. Cơn mưa cuối mùa và gió lạnh đang kéo tới, chúng tôi phải đi nhanh để kịp đến nhà ông Sơn, một nhân vật quái đản -theo lời nhận xét của gi
09/08/2020(Xem: 12423)
Là một nhà văn, một nhà thơ, một nhà báo, và là một người tuyên thuyết Phật pháp – trong vị trí nào, Vĩnh Hảo cũng xuất sắc, và nổi bật. Tài hoa của Vĩnh Hảo đã hiển lộ từ các tác phẩm đầu thập niên 1990s, và sức sáng tác đó vẫn đều đặn trải dài qua hai thập niên đầu thế kỷ 21. Vĩnh Hảo viết truyện dài, truyện ngắn, làm thơ, viết tùy bút, viết tiểu luận – thể loại văn nào anh viết cũng hay, cũng nổi bật hơn người. Giữ được sức viết như thế thực là hy hữu. Thể hiện nơi ngòi bút rất mực văn chương, Vĩnh Hảo chính là một tấm lòng thiết tha với đất nước, với đạo pháp, với con người. Tấm lòng đó hiện rõ trong từng hàng chữ anh viết, đặc biệt là trong 100 Lá Thư Tòa Soạn của Nguyệt San Chánh Pháp, là nội dung của sách này với nhan đề Lời Ca Của Gã Cùng Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]