Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kiều Kinh

20/03/202219:27(Xem: 6200)
Kiều Kinh

 

 kim van kieu

 

 


KIỀU KINH

(Tu là cội Phúc...)

... Cho hay giọt nước cành dương
Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên...
(Đoạn Trường Tân Thanh – Nguyễn Du)

Ninh Giang Thu Cúc







LỜI THƯA CÙNG QUÝ ĐỘC GIẢ


Những tưởng Ninh Giang Thu Cúc sẽ gác bút sau tập nhận định “Đọc Kiều Thương Khách Viễn Phương” nhưng nào có được - bởi nghiệp dĩ đeo mang nên mới có Kiều Kinh gởi đến quý vị.
Với tuổi tác và bệnh trạng – tác giả muốn nghỉ viết để duy dưỡng tinh thần, trì chú niệm kinh và chung sống an yên cùng căn bệnh nghiệt ngã là xẹp cột sống lưng...
Thế nhưng; với tiêu chí – còn thở là còn làm việc, tác giả không cam chịu là người vô tích sự vì thế NGTC vẫn viết (dù trong tư thế khó khăn) mong đóng góp chút công sức nhỏ nhoi cho nền Văn học nước nhà.

Với “Đọc Kiều Thương Khách Viễn Phương” tôi đã đồng cảm sẻ chia nỗi khổ niềm đau với người đàn bà bạc mệnh Thúy Kiều... Nhưng tôi nghĩ vẫn chưa đủ; bởi sau cuộc đoàn viên với gia đình và Kim Trọng, Thúy Vân đã “bàn giao” Kim Trọng cho chị để gọi là châu về hợp phố, có thể Thúy Vân chỉ vì cảm thương tình cảnh của chị mình chứ với “bản năng sở hữu”, chắc gì Vân đã thật lòng nói lời “trao trả”... Phần Thúy Kiều bằng sự trải nghiệm phong trần mười lăm năm với bao sự, bao tình, đã cho nàng một vốn sống đủ để chối từ lời đề nghị nối lại tình xưa với chàng Kim bằng chính lòng tự trọng; và cả sự xấu hổ về quá khứ nhục nhằn của bản thân chứ trong sâu thẳm tâm tư Thúy Kiều - mối tình đầu với Kim Trọng dễ gì phai nhạt?!
Bây giờ gặp lại cố nhân với “phấn thừa hương cũ bội phần xót xa” chỉ gây sự khó xử cho cả ba người, hai người đàn bà đáng thương nầy đều mang nỗi mặc cảm khác nhau, họ phải nhìn nhau để ứng xử từng ngày trong mối tương quan; làm sao tránh khỏi chạnh lòng khi nghĩ đến bao điều vi tế trong đời sống vợ chồng, giữa Thúy Vân Kim Trọng, Thúy Kiều Kim Trọng. Trong vụ việc nầy chỉ có Kim Trọng là người thụ hưởng tất cả mọi sự lợi lộc, cụ Nguyễn thiên vị đàn ông nhiều quá?! Chúng tôi có suy nghĩ; để bảo vệ tình cảm máu thịt của hai chị em Thúy Vân – là Thúy Kiều nên xuất gia cửa Phật để tu trì, sám hối những oan nghiệt trong quá khứ, hiện tại, vị lai, đó là cách tốt nhất cho thân, tâm Thúy Kiều, trả lại sự bình yên cho Thúy Vân trong cuộc đời làm vợ Kim Trọng để hai người đàn bà cùng thoát cảnh:
“... Cái kiếp lấy chồng chung
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng...”
(Hồ Xuân Hương)
Cụ Nguyễn Tiên Điền đã chẳng từng khẳng định “Tu là cội phúc tình là dây oan” và đã dọn dẹp cho Thúy Kiều đời sống “Mùi thiền đã bén muối dưa. Màu thiền tính vốn quen ưa nâu sòng” đó sao?!
Vậy Kiều Kinh của kẻ hậu sinh, hậu học nầy đã đáp ứng đúng nguyện vọng của tiền nhân; hẳn cụ bằng lòng cho con làm việc ấy. Xin kính vọng đến anh linh Nguyễn Tiên Điền muôn vàn sự yêu kính con dành cho cụ.
Với một trăm tám mươi hai (182) câu lục bát – xin nguyện cầu Thúy Kiều được đến bến bờ giải thoát.
“... Lạ thay vừa bén mùi thiền
Mà trăm nảo với ngàn phiền sạch không”
(Chu Mạnh Trinh)
Và trong nỗi khổ chung của chúng sanh, nguyện hồi hướng công đức cho toàn thể nhân sinh trên hành tinh nầy không còn hận thù chia rẽ màu da sắc tộc, dị biệt tôn giáo khi tất cả mọi người đều có chung “Máu cùng đỏ và nước mắt cùng mặn”. Mong thay!

Trân trọng
Ninh Giang Thu Cúc

Ninh-Giang-Thu-Cuc-vh-saigon
Nhà nghiên cứu Ninh Giang Thu Cúc




KIỀU KINH

Phù thế đã nhiều duyên nghiệp quá
Lệ lòng mong cạn chốn am không
Cửa thiền một đóng duyên trần dứt
Quên hết người quen chốn bụi hồng
(Bến giác – J.Leiba)

I - Am tranh lều cỏ sớm trưa
Nâu sòng đạm bạc muối dưa tịnh lòng
Qua rồi năm tháng long đong
Oan khiên rửa sạch thong dong cõi miền
Gieo duyên – khoác áo “Trạc Tuyền”
Mầm lành hé nhú – giữa miền trần lao
Nghiệp căn còn mãi lao xao
Phải tay Bạc Hạnh lại vào lầu xanh.

II - Ngược dòng về tuổi thanh tân
Nữ lưu phong vận hồng quần băng trinh
Sắc tài năm ngón tay xinh
So dây nắn phím tơ tình đa đoan
Cung cầm nửa khúc tân toan
Bằng như mệnh nghiệp mang mang đợi chờ
Thật ư – mà tưởng như mơ
Tiết Thanh Minh ấy cập bờ tơ duyên
Tim son loạn nhịp đầu tiên
Môi hồng nở nụ thơm hiền đoan trinh
Thoắt nhiên tình lại gặp tình
Như là đã hẹn ba sinh thuở nào
Lên yên Kim vẫy tay chào
Khuê phòng trở gót Kiều nao nao buồn
Giã từ chưa tỏ ngọn nguồn
Mà sao lòng cứ vấn vương chút gì
“... Người đâu gặp gỡ làm chi
Trăm năm biết có duyên gì hay không...”
Ngẩn ngơ lòng lại hỏi lòng
Ai kia nào có trông mong như mình
Bâng khuâng quay ngựa thư phòng
Chàng Kim xao xuyến ước mong tương phùng
Dáng ai tha thướt hình dung
Gót sen uyển chuyển làm rung tơ lòng
Dung nhan kiều mị sáng trong
Thu ba sóng gợn trăm vòng hồ thu
Phòng văn ca khúc tương tư
Sáng chiều thơ thẩn áng thư đứng ngồi
Nhìn đâu cũng thấy bóng người
Giọng oanh thỏ thẻ nói cười đoan trang
Nghĩ suy tìm cách lần sang
Mái đông hiên Thúy ngàn vàng đặt thuê
Cầu mong gần được tường khuê
Mặt nhìn tỏ mặt lòng mê mẩn lòng

Hoàng hôn gặp buổi thong dong
Thúy Kiều dạo gót tường đông ngắm trời
Thoa vàng vướng cánh đào tươi
Vô tư nàng vẫn rong chơi chẳng nhìn
Bên hiên Lãm thúy chàng Kim
Đêm ngày ước nguyện được nhìn dáng ai
Sáng mai dạo bước tường ngoài
Nhìn sang vườn Thúy ai hoài nhớ thương
Hoa đào thoang thoảng đưa hương
Trên cành bỗng thấy vướng vương vật gì?
Vội vàng Kim nhón chân đi
Tìm thang bắt vội ngại chi hiểm nghèo
Trân châu báu vật đây rồi
Của đây người đấy bồi hồi thiết tha
Tường xuân kín cổng cao tòa
Tin xuân đâu dễ lọt qua trướng hồng
Âm thầm sáng ngóng chiều trông
Thoa vàng càng ngắm càng mong gặp người
Lòng đang tưởng một nhớ mười
Vườn bên nghe vọng tiếng cười xôn xao
Kim mừng khấp khởi nôn nao
Vội vàng sửa áo ra chào giai nhân
Hai bên giáp mặt tần ngần
Mừng nầy đã thỏa bao lần ngóng trông
Chàng Kim cất tiếng thưa, vâng
Kim thoa nhặt được rày mong mai chờ
Thật đây mà tưởng như mơ
Châu về hợp phố xin nhờ trao tay
Thúy Kiều muôn đội ơn may
Kim càng luống cuống càng say men tình
Tay ngà năm ngón nuột xinh
Nâng niu trâm ngọc ân tình cưu mang
Kim Kiều hạnh ngộ hân hoan
Đổi trao kỷ vật xuyến vàng khăn thêu
Vượt rào thề ước trăm điều
Thơ đề, tranh họa, vách treo nguyệt cầm
Tay tiên dạo phím tơ đồng
Khúc khoan khúc nhặt sầu đong lệ nhòa
Cung cầm năm bậc mưa sa
Buồn lên chất ngất cỏ hoa úa màu
Năm canh tròn giấc mộng đầu
Duyên trong nghĩa trọng ngọc châu sáng ngời
Chia tay bịn rịn khóc cười
Bình minh ló dạng – tiếng người gọi sang
- Cậu về lo việc hộ tang
Ông bà đã sẵn – đường sang quê người
Liêu Dương – thúc phụ qua đời...
Hiếu, tình, cách trở rã rời lòng Kim...

Nổi nênh chút phận thuyền quyên
Tai ương dồn dập ngày đêm đọa đày
Nỗi nhà ách nạn oan đầy
Nỗi mình tình nặng sâu dày biển non
Trăm năm thề nguyện vuông tròn
Nào hay oan khốc tình son lỡ làng
Đành thôi ngọc nát vàng tan
Bút đau vĩnh biệt Kim lang mấy hàng
Quay lưng hứng chịu bẽ bàng
Gia hương đạo trọng ngàn vàng dễ mua
Thương cha tuổi tác già nua
Đem thân báo đáp ân thừa – cao sơn
Đắng cay bao nệ thiệt hơn
Thung huyên gia đạo an yên là mừng
Chén buồn đưa tiễn ngập ngừng
Đất trời chớp giật đùng đùng bủa vây
Thương sao thân phận bèo mây
Dữ nhiều lành ít vần xoay nghiệp trần
Sa vào lưới nhện căn phần
Đoạn trường lăn lóc mấy lần hồng nhan
Đọa đày nát ngọc tan vàng
Bèo mây trôi dạt lầm than đất người
Bao phen mưa dập sóng dồi
Tấm thân luân lạc nổi trôi sớm chiều
Cực lòng tạm khoác phong phiêu
Mưa chan gió táp lạnh xiêu vóc gầy...

III- Quay đầu nương tựa am mây
Rũ thân bụi bặm bủa vây hồng trần
Quy y Tam bảo hồng ân
Tam quy ngũ giới thành tâm thọ trì
Từ đây dứt bỏ tham si
Nâu sòng đạm bạc đứng đi nhẹ nhàng
Mõ chuông kinh kệ lời vàng
Pháp âm rót mật hàng hàng âm ba
Muối dưa chay tịnh ngày qua
Tâm kinh bát nhã an hòa thân tâm
Thất tình lục dục giảm dần
Bờ mê trở gót đến gần đài sen
Tuệ quang bừng sáng ánh đèn
Soi pho kinh điển bao phen đêm dài
Kiếm Văn Thù chặt mê sai
Kim Cang diệu hữu cho ai kiên trì
Thủy Sám lạy đấng từ bi
Lương Hoàn sám hối những gì nghiệt oan
Trải nhiều kiếp nạn tân toan
Thành tâm hóa giải muôn ngàn nghiệp xưa
Từ đây tạnh gió tan mưa
Nhân lành gieo giống chẳng chừa nhỏ to
Yêu người yêu vật chăm lo
Con sâu cái kiến chẳng cho diệt trừ
Nhiếp tâm mở rộng lòng từ
Bốn phương ba cõi xem như một nhà
Thương người xuôi ngược bôn ba
Tuổi cao sức yếu không nhà cô đơn
Ấp yêu xoa dịu tủi hờn
Miếng cơm manh áo qua cơn ngặt nghèo
Thương người vất vả gieo neo
Sẻ chia khó nhọc trèo đèo vượt sông
Giúp người bất kể sơ thân
Nguyện xin trang trải nợ nần kiếp xưa
Thương yêu nói mấy cho vừa
Trải lòng nhân ái sớm trưa tô bồi
Ngược xuôi bao độ luân hồi
Bao phen chìm nổi bao lời thị phi
Giờ xin giọt nước dương chi
Rửa tâm sạch mát sân si xa lìa
Quá khứ khép cửa sau kia
Mắt nhìn hiện tại đong chia mấy phần
Tương lai đừng vọng xa gần
Sinh linh bao kiếp xoay vần được thua
Nhân gieo quả gặt được mùa
Hồi chuông triêu mộ đuổi xua nghiệp tà
Ung dung bước giữa ta bà
Băng tâm nhất phiến ngọc ngà – Tôi ơi!
Tâm từ vô lượng dâng đời
Tâm bi vô lượng gởi người trần gian
Tâm hỉ vô lượng lạc, an
Tâm xã vô lượng buông ngàn chấp mê
Bốn tâm nương tựa Bồ Đề
Cội nguồn tu tập nương về pháp thân
Tín tâm một dạ chuyên cần
Niết bàn hiện tại cận gần nhân sinh
Mấy lời lập nguyện đinh ninh
Kiều xin huân tập cứu mình: An Vui!
Dám đâu nghĩ chuyện độ đời
Dám đâu nghĩ chuyện xa vời cứu sinh
Mấy câu tâm huyết răn mình
Nhất tâm đảnh lễ chúng sinh muôn loài.

IV - Nguyện cầu nhân loại thái bình
Nhà nhà no ấm đậm tình nước non
Muôn dân một tấc lòng son
Dâng lên Quốc tổ vẹn tròn thảo ngay.

Ninh Giang Thu Cúc



***

facebook

youtube


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24672)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9502)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 11224)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3646)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5440)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3286)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10876)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3774)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15257)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3550)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]