Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kỷ lục gia – nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương và những dòng thơ đi vào lòng người

25/12/202110:15(Xem: 6645)
Kỷ lục gia – nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương và những dòng thơ đi vào lòng người

Kỷ lục gia – nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương và những dòng thơ đi vào lòng người



Chỉ mới nói chuyện qua điện thoại nhưng vừa gặp chúng tôi, bà đã đón tiếp như những người đã quen biết từ lâu, thậm chí như người trong nhà. Người mà chúng tôi muốn nói đến là nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương. Tên tuổi của bà từ lâu đã được nhiều người biết đến. Riêng bài thơ Còn gặp nhau đã nhận được sự mến mộ của nhiều người do những dòng thơ thấm vào từng ngóc ngách của mọi tâm hồn yêu thơ! Bài thơ 7 đoạn này câu chữ khi đọc lên nghe rất đỗi đơn sơ giản dị nhưng lại hàm chứa ý nghĩa sâu xa về tình người, tình đời, ý đạo.

ton nu hy khuong-13

Thưa nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, có phải bà đến với thơ ca do người thân hướng dẫn?

– Bằng giọng rất Huế bà tươi cười nói: Gia đình tôi làm thơ cha truyền con nối, đến tôi là đời thứ năm. Cách đây ít lâu một nhà nghiên cứu văn học đã viết: “Những nhà thơ nổi tiếng năm đời trực hệ trong một gia đình vương giả ở Huế”. Từ ông sơ là vua Minh Mạng đến ông cố là người con thứ 11 của vua là Tuy Lý Vương Miên Trinh, người được nhắc trong câu thơ của vua Tự Đức “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán, Thi đáo Tùng Tuy thất thịnh Đường”. Đến ông nội tôi là Tiểu Thảo Hồng Thiết, sang cha tôi là Ưng Bình Thúc Giạ Thị và đến Công Tằng Tôn Nữ Hỷ Khương, kéo dài đến nay 192 năm.

Lúc nhỏ, tôi có may mắn gần cha tôi nhiều và được ông cụ dạy cho cách làm thơ. Với cha tôi, thứ nhất thơ phải rõ nghĩa, thứ hai trong thơ phải có nhạc và chính thơ có nhạc thơ mới “bén rễ” sâu trong lòng người!

Thưa bà, có phải một bài thơ đúng hơn một bài hò của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị đã được lưu truyền, nhiều người thuộc lòng cứ ngỡ là ca dao?

– Đó là bài “Chiều chiều trước bến Văn Lâu, Ai ngồi, Ai câu, Ai sầu, Ai thảm, Ai thương, Ai cảm, Ai nhớ, Ai trông. Thuyền Ai thấp thoáng bên sông, Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non”. Những câu thơ này Ưng Bình Thúc Giạ Thị, cha tôi viết về vua Duy Tân. Thuở ấy vua Duy Tân có khi giả dạng thường dân ra ngồi câu cá ở bến Phu Văn Lâu chờ gặp Trần Cao Vân để mật bàn chuyện quốc sự. Không ngờ vận điệu của câu hò được truyền tụng trong dân gian và vô hình chung trở thành ca dao in trí nhớ nhiều người. Nỗi niềm của người viết trong khung cảnh đó đã làm câu hò trở nên bất hủ. Cha tôi còn viết một câu hò khác về Đào Duy Từ “Khi trông lên đò Trạm, khi ngó xuống Lũy Thầy, đố Ai có biết dạ này thương Ai?”.


ton nu hy khuong-14



Bài thơ “Còn Gặp Nhau” của bà rất nổi tiếng, nhưng không phải ai cũng biết được hoàn cảnh ra đời của nó như thế nào?

– Tôi xin thưa rõ câu chuyện cho có đầu có đuôi. Năm 1964, tờ bán nguyệt san Phổ Thông của nhà văn Nguyễn Vỹ nơi tôi cộng tác thường xuyên, đưa tin sẽ xuất bản tập thơ Đợi Mùa Trăng của Hỷ Khương. GS.TS văn chương Pháp Nguyễn Văn Cổn từ Pháp đã viết thư về cho ông Nguyễn Vỹ đề nghị được viết bài tựa cho tập thơ, dù tôi và ông Cổn chưa bao giờ liên lạc với nhau. Ông Nguyễn Văn Cổn là bạn thân của GSTS Trần Văn Khê. Ông thường đưa thơ của tôi cho anh Khê xem. Từ đó, anh Khê với tôi liên lạc qua thư từ. Sau một thời gian, chúng tôi trở thành anh em kết nghĩa.

https://i0.wp.com/kyluc.vn/Editor/assets/1.6/19.6/ConGapNhau-TNHK.jpg

Bài thơ Còn gặp nhau của nhà thơ Hỷ Khương được nhiều người biết đến

Năm 1993, GS.TS Trần Văn Khê tham gia trong đoàn của Tổng Thống Francois Mitterand sang thăm Việt Nam. Khi vừa đến TP.HCM, anh Khê có nhắn tôi và Thúy Hoan lên gặp anh ở khách sạn Rex. Anh em gặp nhau hết sức vui mừng. Sau đó, anh Khê đi theo đoàn liên tiếp mấy ngày. Trước khi trở lại Pháp, anh nhắn tôi lên để giã biệt. Do bị ốm, không đi được nên tôi đã gởi cho anh một bài thơ trong đó có 4 câu: “Còn gặp nhau thì hãy cứ vui, Chuyện đời như nước chảy hoa trôi. Lợi danh như bóng mây chìm nổi, Chỉ có tình thương để lại đời”.

Lúc lên máy bay anh đã họa lại bài thơ, nhắc lại lúc chúng tôi gặp nhau, 4 câu thơ sau đây anh đã họa lại 4 câu trên: “Nắm tay hiền muội rộn niềm vui, Quên cả thời gian vẫn cứ trôi. Chỉ nhớ không gian thâu ngắn lại, Tao phùng bao phút đẹp trên đời”. Về sau tôi đã làm thêm 6 đoạn nữa, thành ra bài thơ có 7 đoạn như mọi người đã biết.

Những câu thơ trong bài Còn gặp nhau chữ nghĩa bình dị nhưng khiến cho người đọc nhớ mãi?

– Tôi cũng lấy làm lạ. Khi viết tôi chỉ dùng những câu chữ đơn giản, có lẽ nhờ vậy mà đi vào lòng người. Một vị giáo sư đại học nói với tôi rằng: “Tôi lấy thơ Hỷ Khương ra đọc cho các em sinh viên nghe: Còn gặp nhau thì hãy cứ chơi. Bao nhiêu thú vị ở trên đời. Vui chơi trong ý tình cao nhã, Cuộc sống càng thêm nét tuyệt vời”. Tôi nói với các em: “Nhà thơ Hỷ Khương nói vui chơi ở đây là vui chơi trong ý tình cao nhã thì cuộc sống càng thêm nét tuyệt vời vì có ý nghĩa”.

Hòa thượng Thích Giác Toàn – Viện Chủ Tịnh Xá Trung Tâm – sau khi đọc tập thơ Hãy Cho Nhau, đã nói với tôi: “Cô Hỷ Khương ơi, cô làm thơ dễ dàng như thế, làm ra được những câu thơ như vậy là tu bao nhiêu kiếp”. Nghe lời dạy của Hòa thượng lòng tôi rất xúc động.



Thơ của Tôn Nữ Hỷ Khương dễ đi vào lòng người còn vì đọc lên đã thấy nhạc điệu ẩn chứa trong đó…

– Bài thơ Còn gặp nhau có nhiều nhạc sĩ dùng phổ nhạc. Trong đó, riêng Giáo sư Võ Tá Hân là phổ trọn cả bài. Tôi bảo với ông: “Làm sao mà giỏi thế?”. Ông trả lời: “Thơ Hỷ Khương đã là bản nhạc rồi nên rất dễ phổ, bỏ đi một chữ cũng không được”. Hiện có rất nhiều hội đoàn ở Mỹ xin phép dùng bài Còn gặp nhau do nhạc sỹ Võ Tá Hân phổ nhạc để làm nhạc nền.


Thơ của bà được rất nhiều người dùng để viết thư pháp, hẳn là có nhiều câu chuyện thú vị từ đây?

– Cuối năm 2004, tôi thật bất ngờ khi nhận được cuộc điện thoại của một người đàn ông mà cho tới nay tôi cũng chưa biết là ai. Người đó nói rằng: “Chị Hỷ Khương ơi, người ta khắc thơ của chị lên đá để bán trong hội hoa xuân. Một phiến 200 đô la, nhưng không đề tên chị. Tôi muốn mua mà không đủ tiền”. Tôi hỏi: “Không để tên sao anh biết thơ tôi”, người ấy trả lời: “Ai mà không biết”. Tôi nghe rồi cũng quên.

Sau đó, khi tôi cùng một số bạn học cũ đi ngang hội hoa xuân, một người bạn trong nhóm rủ vào chụp ảnh. Tôi chợt nhớ đến câu chuyện những phiến đá khắc thơ mình trong hội hoa xuân từ người đàn ông nọ. Tôi kể lại, các bạn nghe thấy rất vui và rủ nhau đi tìm. Rất nhanh chúng, chúng tôi đã gặp gian hàng triển lãm thư pháp với một dãy đá nhiều màu khắc hai câu thơ: “Lợi danh như bóng mây chìm nổi, Chỉ có tình thương để lại đời”.

 


Nhà thơ Hỷ Khương và phiến đá khắc một trong những câu thơ tâm đắc của bà


Một người phụ nữ ra chào hỏi hết sức vui vẻ: “Thưa chị, chị có phải là chị Hỷ Khương không? em thấy chị trên sách, trên báo, trên ti vi”. Tôi nghe lấy làm lạ. Người phụ nữ lại nói: “Chúng em tính xong hội hoa xuân sẽ đem một phiến đá đến tặng chị”. Một người bạn của tôi nói ngay: “Chúng tôi có sẵn xe, bà cho đưa ra xe dùm”. Phiến đá ấy giờ đã trở thành một kỷ vật của tôi.

 

***

Lúc tiễn chúng tôi, nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương thân tình dặn bằng những dòng thơ trong bài Dặn Lòng, “Giữ yên nếp sống dịu hiền, Gây chi sóng gió thêm phiền lòng nhau. Khi đời đã chẳng vào đâu, Trăm năm mua lấy chữ sầu ích chi”. Một bài thơ không có chữ nghĩa nào “to tát” cả mà đã giúp nhiều người giải tỏa những phiền muộn lo âu.

Khánh Bình (thực hiện) – kyluc.vn

Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương năm nay 75 tuổi. Bà sinh ra ở Vỹ Dạ (Huế) nhưng vào Nam sống từ năm 1961. Bà là tác giả của nhiều tác phẩm: Đợi mùa trăng (1964), Mộng thanh bình (1970), Còn gặp nhau (1999), Bâng khuâng tình khúc (2001), Hãy cho nhau (2004), Nước vẫn xanh dòng (2005), Thơ tình và tình thơ (2006), Thơ dâng cha mẹ (2007), hồi ký về thân phụ Hồi ức về cha tôi: Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1996, tái bản có bổ sung 2002, 2011)… Hiện là hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh.

Năm 2004, bài thơ Còn gặp nhau của bà đã được Công ty văn hóa sáng tạo Trí Việt – First News in trên lịch 7 tờ với thư họa của họa sĩ Vũ Hối. Vào mỗi dịp đầu xuân, Trí Việt lại “đưa” thơ của nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương lên lịch và đều do nhà xuất bản Trẻ cấp giấy phép xuất bản. Về sau, các Công ty văn hóa Hương Trang, Công ty An Hảo, Công ty TNHH một thành viên 789 (Bộ Quốc Phòng)… đã in Còn gặp nhau, Hãy cho nhau cùng nhiều bài thơ khác của nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương lên các cuốn lịch Bloc, lịch 7 tờ, lịch năm, lịch để bàn, Agenda… phát hành rộng rãi trong nước, thông qua các nhà xuất bản Trẻ, Văn Nghệ, Hội Nhà văn… Ngoài ra, còn nhiều nơi in thơ bà trên lịch. Ngày 30.10.2011, trong Hội ngộ Kỷ lục gia Việt Nam lần thứ 21, nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương đã nhận danh hiệu Nhà thơ nữ có thơ in trên lịch nhiều nhất.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2016(Xem: 5795)
Nhưng việc ra mắt sách chỉ là cái cớ, bởi bản thân dòng thông tin ngắn gọn rằng nhà sư Thích Phước An từ đồi Trại Thủy (Nha Trang) vào Sài Gòn đã có một sức quyến rũ đặc biệt đối với bạn bè, người đồng đạo và giới quan tâm.
16/11/2016(Xem: 11684)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 15993)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 10979)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7401)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 19622)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4322)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4061)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3525)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 12996)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]