Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tuyển tập thơ Tôn Nữ Hỷ Khương: 'Chỉ có tình thương để lại đời'

25/12/202109:29(Xem: 6584)
Tuyển tập thơ Tôn Nữ Hỷ Khương: 'Chỉ có tình thương để lại đời'
Nói đến nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương, nhiều người biết bà thuộc hoàng tộc triều Nguyễn. Nhưng điều quan trọng với một nhà thơ, ấy là khi tác phẩm của bà được “dân gian hóa” trở thành ca dao để mọi người cùng ngâm ngợi mà quên đi tên tác giả.

NXB Thời Đại vừa ấn hành Tuyển tập thơ Tôn Nữ Hỷ Khương dày gần 300 trang. Tuyển tập này bao quát gần như đầy đủ 50 năm cầm bút của bà, kể từ tập thơ đầu tay Đợi mùa trăng in vào năm 1964.

Cha và con đều có tác phẩm được “dân gian hóa”

Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương sinh năm 1937 tại Huế trong dòng dõi vua chúa triều Nguyễn. Thân phụ của bà là cụ Ưng Bình Thúc Dạ Thị, một danh nhân văn hóa của đất cố đô, có nhiều đóng góp trong việc phát triển ca Huế và tuồng. Nhắc đến cụ Ưng Bình, những người yêu văn hóa Huế hẳn sẽ thuộc nằm lòng câu hò của ông: Chiều chiều trước bến Văn Lâu, ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm, ai nhớ ai mong. Thuyền ai thấp thoáng trên sông, đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.

Thuở nhỏ, Hỷ Khương được cha mình cho theo các buổi sinh hoạt văn nghệ. Từ đó thơ ca thấm vào bà từ lúc nào. Có thể nói, với cụ Ưng Bình, Hỷ Khương vừa là con, vừa là học trò lại là tri âm tri kỷ.

ton nu hy khuong-7
Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương tại nhà riêng, bên tảng đá có ghi thơ mình do bạn đọc gửi tặng



Cũng như cha mình, thơ của bà vượt thoát khỏi sự làm dáng của câu chữ, dù bản thân bà là “lá ngọc cành vàng” chính hiệu. Đáng quý hơn, thơ Hỷ Khương còn đứng riêng ra khỏi cái bóng quá lớn của Ưng Bình Thúc Dạ Thị.

Nhà văn, bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc kể rằng, một lần ông đi xem triển lãm thư pháp, thấy trên tảng đá khắc chữ rất đẹp hai câu thơ: Lợi danh như bóng mây chìm nổi/ Chỉ có tình thương để lại đời, nhưng không ghi tên tác giả. Ông đến hỏi thì người ta trả lời rằng: “Đọc là biết thơ của Tôn Nữ Hỷ Khương, vậy ghi tên làm gì”. Lại một lần khác vào dịp năm mới, Đỗ Hồng Ngọc nhận được tấm thiệp chúc Xuân. Người gửi thiệp ghi bốn câu thơ: Còn gặp nhau thì hãy cứ vui/ Chuyện đời như nước chảy hoa trôi/ Lợi danh như bóng mây chìm nổi/ Chỉ có tình thương để lại đời, cũng không thấy ghi tên tác giả.
Sau những lần như vậy, Đỗ Hồng Ngọc cho rằng: “Thơ Hỷ Khương đã thành ca dao, tục ngữ, đã đi vào những cánh thiệp mừng Xuân, mang lời chúc đầu năm đến cho mọi người, rồi thơ còn được khắc trên đá... Thơ Hỷ Khương đã được mọi người không còn biết là của ai mà ai cũng nhớ, cũng thuộc đôi câu như những câu hò của cha bà: Chiều chiều trước bến Văn Lâu...

Ở ta, có rất nhiều bài thơ khiến cho tác giả của nó trở nên nổi tiếng nhờ bài thơ đó được phổ nhạc. Thơ Hỷ Khương không phổ nhạc, nhưng gần như ai cũng thuộc, vì trong một cuộc gặp mặt chỉ cần một người đọc lên  “còn gặp nhau” thì thể nào người còn lại sẽ đọc tiếp “hãy cứ vui”... Rồi thì: Còn gặp nhau thì hãy cứ say/ Say tình say nghĩa bấy lâu nay/ Say thơ say nhạc say bè bạn/ Quên cả không gian lẫn tháng ngày. Tôn Nữ Hỷ Khương quan niệm, đời người như cơn gió thoảng, còn chăng để lại là chút tình với thế gian.

ton nu hy khuong-8
Tuyển tập thơ Tôn Nữ Hỷ Khương





Ngai vàng chót vót năm đời trước

Năm 2011, bạn bè nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương tổ chức mừng sinh nhật bà bằng tập thơ Khúc tri âm, tập hợp những bài thơ của bằng hữu và bạn đọc viết tặng bà.

Khúc tri âm gồm 167 bài với những tên tuổi quen thuộc với thơ ca Việt Nam thuộc nhiều thế hệ, như: Vũ Hoàng Chương, Huy Cận, Mộng Tuyết, Anh Thơ, Tương Phố, Trương Nam Hương, Tôn Nữ Thu Thủy, Trần Hữu Lục... cùng các GS Vũ Khiêu, Trần Văn Khê, nhà văn - nhà báo Tam Lang...

Tại sao một Công Tằng Tôn Nữ như bà Hỷ Khương lại được nhiều văn nhân, trí thức yêu mến đến thế? Bởi, trong cuộc sống hằng ngày, bà luôn thực hiện đúng quan niệm sống của mình: “hãy cứ vui”. Gặp nhà thơ Hỷ Khương, nụ cười luôn thường trực trên gương mặt của bà. Có thể nói, bà luôn khiến người đối diện vui và hẳn nhiên không bao giờ muốn làm người khác buồn. Người sống như thế nên được rất nhiều người quý là lẽ đương nhiên.

Trong mấy mươi năm, giáo sư, nhạc sĩ Trần Văn Khê với bà là anh em kết nghĩa với tình “huynh muội” sâu đậm. GS Trần Văn Khê luôn gọi bà là “hiền muội” và bà gọi ông là “hiền huynh”. Năm 1986 khi còn ở Pháp, GS Trần Văn Khê được nghe Hỷ Khương ngâm thơ, ông viết: Thương mến tặng tiếng ngọc của Tôn Nữ Hỷ Khương: ... Đêm khuya thưởng thức tiếng em ngâm/ Theo sát lời thơ giọng bổng trầm/ Có giọng ngân dài, khi đổ hột/ Dứt bài còn vọng mãi dư âm...

Vào năm 1964, thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã viết về Hỷ Khương: Ngai vàng chót vót năm đời trước/ Tiếng ngọc bâng khuâng một kiếp này. Nếu tính theo trực hệ từ đời vua Minh Mạng, Tôn Nữ Hỷ Khương thuộc đời thứ năm. Dòng dõi của bà còn có hai nhà thơ Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương - hai ông hoàng triều Nguyễn làm thơ rất hay đến độ dân gian so sánh: Văn như Siêu Quát: vô Tiền Hán/ Thi đáo Tùng Tuy: thất Thịnh Đường.
Không chỉ có thơ của các văn nhân viết về Hỷ Khương, năm 2009, nhà văn Ninh Giang Thu Cúc còn viết hẳn cuốn sách Hành trình thơ của một Công Tằng Tôn Nữ về bà. Hẳn những gì viết về thơ và cuộc đời của nhà thơ Hỷ Khương như những “chút tình còn lại” giữa những người đang sống với nhau trong hành trình thời gian như vó câu qua cửa của kiếp người.
Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương xuất hiện trên các báo từ năm 1959, hiện sống tại TP.HCM. Bà đã in: Đợi mùa trăng (1964), Mộng thanh bình (1970), Còn gặp nhau (1999), Bâng khuâng tình khúc (2001), Hãy cho nhau (2004), Nước vẫn xanh dòng (2005), Thơ tình và tình thơ (2006), Thơ dâng cha mẹ (2007), Hồi ức về cha tôi “Ưng Bình Thúc Dạ Thị” (1996, tái bản bổ sung vào 2002, 2011).

Hoàng Nhân
Thể thao & Văn hóa


***
facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/03/2015(Xem: 16937)
Mai năm nay nở sớm trước Tết. Qua Tết thì những cánh hoa vàng đã rụng đầy cội, và trên cây, lá xanh ươm lộc mới. Quanh vườn, các nhánh phong lan tiếp tục khoe sắc rực rỡ giữa trời xuân giá buốt. Đêm đến, trời trong mây tịnh, vườn sau đón ngập ánh trăng, tạo một không gian huyền ảo lung linh. Đã không có những ngày xuân rực nắng, không có những đêm xuân ấm cúng tiếng đàn câu ca và những chung trà bằng hữu; nhưng chân tình của kẻ gần người xa, vẫn luôn tỏa sự nồng nàn, tha thiết. Cái gì thực thì còn mãi với thời gian thăm thẳm, vượt khỏi những cách ngăn của không gian vời vợi.
24/02/2015(Xem: 3374)
Em có thói quen cứ những ngày cuối năm thường thích lật những chồng thư cũ của bạn bè ra đọc lại, thích tìm kiếm dư âm của những chân tình mà các bạn đã ưu ái dành cho em. Lá thư của Chị đã gây cho em nhiều bâng khuâng xúc động và ngậm ngùi vô cùng vì đó là những nét chữ kỷ niệm của Chị còn lưu lại trên cõi đời này! Đúng vậy, Chị đã ra đi, bỏ lại đằng sau tất cả những ưu tư phiền muộn của cuộc đời và em đang đọc những dòng chữ của Chị đây.
12/02/2015(Xem: 17001)
Mơ màng cát bụi từ thuở nào mới mở mắt chào đời bên ghềnh biển Quy Nhơn rờn mộng ấy, thầy Đức Thắng sinh năm 1947, suốt một thời tuổi trẻ hay chạy rong chơi qua cánh đồng lúa xanh Phổ Đồng, bồng tênh mấy nẻo đường quê hương Phước Thắng ngan ngát cỏ hoa và thả diều tung bay trên bầu trời Tuy Phước lồng lộng bát ngát đầy trời trăng sao in bóng mộng sông hồ. Rồi lớn lên, thường trầm tư về lẽ đời vô thường sống chết, nên từ giã quê nhà, thao thức vào Nha Trang đi xuất gia theo truyền thống Thiền tông Phật giáo đại thừa. Sau đó vài năm chuyển vào Sài Gòn, tiếp tục con đường học vấn, tốt nghiệp Cao học Triết Đông phương và Phật khoa Đại học Vạn Hạnh trước năm 1975.
05/02/2015(Xem: 13603)
Thơ là gì ? Thi ca là cái chi ? Có người cắt cớ hỏi Bùi Giáng như vậy. Thi sĩ khề khà trả lời : “Con chim thì ta biết nó bay, con cá thì ta biết nó lội, thằng thi sĩ thì ta biết nó làm thơ, nhưng thơ là gì, thì đó là điều ta không biết.”* Tuy nói thế, nhưng suốt bình sinh trong cuộc sống, thi sĩ chỉ dốc chí làm thơ và sống phiêu bồng, lãng tử như thơ mà thôi.
04/02/2015(Xem: 30147)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất. Nói cách thực tế theo quán tính của người bình phàm, thì đó là hạnh phúc (phước), thịnh vượng (lộc), sống lâu (thọ). Với các chính trị gia, và những nhà đấu tranh cho dân tộc, cho đất nước, thì đó là tự do, dân chủ, nhân quyền. Với đạo gia thì đó là giải thoát, giác ngộ, và niết-bàn.
02/02/2015(Xem: 11869)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát, nghe theo lời dạy của sư phụ phải ở ẩn một thời gian rồi sau mới ứng cơ giáo hóa. Ngài được Ngũ tổ đưa đến bến Cửu giang rồi chèo đò qua sông đi về phương nam, đến thôn Tào Hầu (曹候村), phủ Thiều Châu (韶州府) nương náu trong một am tranh. Lưu Chí Lược 刘志略 là một nhà Nho chưa biết ngài kế thừa Tổ vị, thấy ngài tu khổ hạnh khiêm cung, bèn hết lòng hộ trì. Ông có một người cô ruột là Thiền ni Vô Tận Tạng (無盡藏比丘尼) không rõ ngày sanh, chỉ biết bà mất vào năm 676 sau TL. Lúc ấy Lục tổ 38 tuổi.
25/01/2015(Xem: 5635)
Tuần vừa qua, một cuốn phim Đại Hàn ra mắt khán giả Paris, được khen ngợi. Báo Mỹ cũng khen. Tên của phim là : Xuân Hạ Thu Đông ... rồi Xuân (1). Không phải là người sành điện ảnh, đọc tên phim là tôi muốn đi xem ngay vì nên thơ quá. Xuân hạ thu đông thì chẳng có gì lạ, nhưng xuân hạ thu đông ... rồi xuân thì cái duyên đã phát tiết ra ngoài. Huống hồ, ở trong phim, xuân rồi lại xuân trên một ngôi chùa nhỏ ... trên một ngôi chùa nhỏ chênh vênh giữa núi non.
25/01/2015(Xem: 5713)
Buổi chiều ghé ngang bưu điện, ngoài những thư từ tạp nhạp, còn có một gói giấy mỏng như cuốn sách, không biết của ai gửi. Tôi quẳng tất cả vào chiếc thùng giấy sau xe. Trên đường về, có một cú phone đường dài, thì ra anh Dũng, một người quen đã lâu không gặp mặt. Anh bảo vừa gửi tôi một cuốn phim và hỏi đã nhận được chưa. Anh nói lúc xem phim cứ nhớ đến tôi và bất chợt muốn nghe tôi chia sẻ đôi điều gì đó. Tôi không phải tín đồ của điện ảnh, chẳng mấy khi xem, nói gì là nghiện. Nhưng lúc xem xong cuốn phim đó, xem và hiểu theo cách riêng của mình, chẳng hiểu sao cứ bâng khuâng mấy giờ liền...
22/01/2015(Xem: 5854)
Ai sống ở đời cũng phải dẫm lên những buồn vui mà đi về phía trước. Có một ngày tôi chợt phát hiện ra mình có những chuyện ngậm ngùi, có thể từng khiến nhiều người thấy buồn, nhưng tôi nhớ hình như chưa nghe ai nhắc tới. Bỗng muốn kể chơi vài chuyện buồn trong số đó cho vui! Tôi chỉ mới về Tàu hai lần trong mười năm xa xứ. Tôi từng đứng một mình trên bến Thượng Hải để ngắm nhìn con sông Hoàng Phố trong đêm, đêm ở đó thường nhiều gió lạnh. Tôi từng một mình thả bộ trong phố đêm Lệ Giang cho đến lúc quán xá bắt đầu đóng cửa. Nhiều và khá nhiều những nơi chốn đây kia trên xứ Tàu đã hút hồn tôi, đến mức đã rời đi cả tháng trời sau đó còn cứ thấy nhớ như điên.
10/01/2015(Xem: 16871)
Chúng tôi cùng được sinh ra từ một người cha, một người mẹ. Chúng tôi cùng được lớn lên trong một căn nhà, lúc lớn, lúc nhỏ, lúc chỗ này, lúc chỗ kia, nhưng cuộc sống gia đình tương đối êm ấm, thuận hòa. Cha mẹ chúng tôi thương yêu, kính thuận nhau, và cũng hết mực thương yêu con trẻ, không bao giờ có ý ngăn cản sự góp mặt chào đời của mỗi đứa chúng tôi trong gia đình ấy. Vì vậy mà anh chị em ruột thịt chúng tôi thật là đông: đến 7 gái, 7 trai! Bầy con lớn như thổi, thoắt cái mà người chị cả đã trên 70, và cậu em út thì năm nay đúng 50. Anh chị em chúng tôi, mỗi người mỗi ý hướng, mỗi sở thích khác nhau, chọn lấy lối sống của mình theo lý tưởng riêng, hay theo sự xô đẩy của hoàn cảnh xã hội. Nhiều anh chị em đã đi thật xa, không ở gần ngôi từ đường bên ngoại mà mẹ đang sống với chuỗi ngày cuối đời ở tuổi cửu tuần.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]