Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Di tích Cổ đại Ấn Độ "A Chiên Đà Thạch Quật" ( Ajantà) vẫn Trơ gan cùng Tuế nguyệt Ngàn năm Tuyệt tác

31/08/202119:14(Xem: 7937)
Di tích Cổ đại Ấn Độ "A Chiên Đà Thạch Quật" ( Ajantà) vẫn Trơ gan cùng Tuế nguyệt Ngàn năm Tuyệt tác





Di tích Cổ đại Ấn Độ "A Chiên Đà Thạch Quật"
vẫn Trơ gan cùng Tuế nguyệt Ngàn năm Tuyệt tác

(印度古代佛教阿旃陀石窟)



Di tích cổ đại Phật giáo Ấn Độ A Chiên Đà Thạch quật (Ajanta, 印度古代佛教阿旃陀石窟) vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt nghìn năm tuyệt tác, tọa lạc trên vách núi Maharashtra Dayak, phía Bắc của bang Maharashtra, Ấn Độ với 30 hang động được xây dựng từ thế kỷ thứ 2-7 trước Tây lịch.

Trong A Chiên Đà Thạch quật có rất nhiều tranh cổ và một số bức bích họa được xem là ảnh hưởng của nghệ thuật Phật giáo. Hang động vòng vách núi hình lưỡi liềm, tường thấp, trải dài hơn 550 mét. Với kiến trúc mỹ thuật tráng lệ, nét chạm khắc và bích họa tinh tế hoành tráng, là một Thánh địa Phật giáo, một trong những điểm tham quan nổi tiếng nhất phía Nam Ấn Độ.

Di tích cổ đại Phật giáo Ấn Độ A Chiên Đà Thạch quật là một trong những di sản lớn nhất về đạo Phật còn lưu giữ được đến ngày nay. 

Theo UNESCO, đây là những kiệt tác của Nghệ thuật kiến trúc Phật giáo có ảnh hưởng đến nghệ thuật Ấn Độ sau này. Các hang động được xây dựng thành hai giai đoạn, giai đoạn đầu được xây dựng từ thế kỷ thứ 2 TCN và giai đoạn thứ hai bắt đầu từ năm 400–650 sau Tây lịch bởi các tài liệu cũ hoặc từ năm 460–480 theo các tài liệu rộng rãi sau này. Đây là di tích được bảo vệ bởi Cục Khảo sát Khảo cổ Ấn Độ và kể từ năm 1983, quần thể này đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới.

A Chiên Đà Thạch quật Phật giáo cổ đại Ấn Độ được chạm khắc bắt đầu Phật điện, Tăng phòng. Thuật ngữ “阿旃陀石窟” xuất phát từ tiếng Phạn (अजिंठा-वेरूळची लेणी; 阿谨提那; Ajinṭhā-verūḷacī leṇī) nghĩa là “Vô tưởng-無想, Vô tư-無思”.

A Chiên Đà Thạch quật cổ đại khai tạc vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên, triều đại Minh quân Thánh triết Ashoka (A Dục Vương), vào thời kỳ Ấn Độ Phật giáo Quốc đạo, Phật giáo đồ kiền thành kính phụng Phật Tổ, nghiên cứu đọc Kinh thư, tu thân dưỡng tính, thâm sơn cùng cốc cảnh sắc trở nên danh lam thắng cảnh tú lệ. Thời gian tứ phương Tăng chúng vân tập, hương hỏa liên tục. Sau khi khai tạc, Phật giáo nơi đây được duy trì và phát triển liên tục với thời gian gần nghìn năm.

Vào thế kỷ thứ 5 và 6 Tây lịch, thời Vương triều Gupta, khoác kiến đại quy mô, tu sửa trang hoàng, bổ sung thêm nhiều hang động đầy màu sắc hơn.

Vương triều Gupta tồn tại từ năm 319 tới 467 ở phần lớn Bắc Ấn Độ, Đông Nam Pakistan, một phần của Gujarat và Rajasthan mà ngày nay là Tây Ấn Độ và Bangladesh.

Đến thế kỷ thứ 7 Tây lịch, với các chiến tranh hỗn loạn từ đó Phật giáo Ấn Độ dần bị suy giảm, A Chiên Đà Thạch quật cổ đại bị ảnh hưởng thời cuộc loạn lạc mà phai tàn theo năm tháng, A Chiên Đà Thạch quật cổ đại chỉ còn dĩ vãng trong ký ức bởi quá khứ lịch sử.

A Chiên Đà Thạch quật cổ đại nằm ẩn sâu trong khu rừng rậm hoang vu của cao nguyên Deccan ở mền nam Ấn Độ và đã trở thành hoang phế cỏ mọc đầy, rừng cây rậm rạp phủ kín, A Chiên Đà Thạch quật cổ đại không còn sự quan tâm chú ý của người dân nữa. Sau đó, các hang động của A Chiên Đà Thạch quật cổ đại đã âm thầm cô độc, lặng lẽ ngủ yên trong núi rừng, mãi đến đầu thế kỷ thứ 19, năm 1819 một nhóm quan chức người Anh đi săn thú rừng, tình cờ đã phát hiện ra một thế giới nghệ thuật kiến trúc cổ đại quý báu, từ A Chiên Đà Thạch quật cổ đại thần kỳ nổi tiếng cho thời kỳ hưng thịnh của Phật giáo Ấn Độ đã chìm lắng bao thế kỷ trôi qua.

Hai nghìn hai trăm năm sau, vào năm 1983 A Chiên Đà Thạch quật cổ đại bắt đầu mới liệt kê vào “danh sách Di sản Thế giới”.

Người ta phát hiện những bức tượng bằng đá mà Tam tạng Pháp sư mô tả hoàn toàn phù hợp, do đó, họ chắc chắn đây là hang động thực sự như Đường tăng Tam tạng Pháp sư Huyền Trang ghi chép. Đường tăng Huyền Trang du học tại Đại học Phật giáo Nalanda, Ấn Độ (629-645) và đã đến thăm vùng A Chiên Đà Thạch quật cổ đại vào năm 638. (Huyền Trang và công cuộc thỉnh kinh vô tiền khoáng hậu của nhân loại).

Sau khi Đường tăng Huyền Trang, Tam tạng Pháp sư trở về bản Quốc, Ngài cảm hứng hạ bút ghi lại hồi ký với tựa đề “Đại Đường Tây vức ký” (大唐西域記).

A Chiên Đà Thạch quật cổ đại, các hang động thờ Phật có kích thước khác nhau, trong đó hang lớn nhất có diện tích khoảng 16m, được đục khoét hình vuông vức. Việc xây dựng các chùa hang động này cũng có sự khác nhau rất lớn, có những chùa được xây dựng một cách đơn giản nhưng cũng có những chùa được xây dựng khá công phu và tinh xảo. Một vài chùa được tạo mái vòm nhưng cũng có chùa không có.

Nhưng phần thiết yếu mà một ngôi chùa phải có đó là nơi thờ Phật. Trong giai đoạn Vương triều Vakataka (伐卡塔卡王朝), những nơi thờ tự Phật ít được để tâm xây dựng bởi vì những nơi có mặt bằng rộng rãi thì thường được dùng làm nơi ăn chốn ở và vân tập tín đồ... Sau đó, các nơi thờ Phật mới được xây dựng nhiều hơn. Các nơi thờ Phật thường được xây dựng dựa lưng vào vách đá phía sau ở trung tâm của ngôi chùa và trên mỗi nơi thờ tự thường đặt một bức tượng Phật ngồi bằng đá. Không chỉ có các hang động, A Chiên Đà Thạch quật cổ đại đặc biệt nổi danh với những bức bích họa trên vách đá và trần hang.

Tổng cộng ở A Chiên Đà Thạch quật cổ đại có đến 500 bức. Màu sắc tranh được làm từ các chất khoáng và các chất có nguồn gốc thực vật nên vừa hài hòa, vừa tương phản mà vẫn tươi nguyên qua mấy nghìn năm. Toàn bộ các bức tranh đều tập trung thể hiện cuộc đời đức Phật và thể hiện các câu chuyện tiền thân của Ngài (trong đó có nhiều kiếp là các con vật, nhiều kiếp là những con người có xuất thân khiêm tốn). Vì thế, tuy đều gắn với đề tài Phật giáo nhưng các bức tranh không chỉ giới hạn trong cuộc sống tăng viện mà bao trùm hiện thực rộng lớn hơn: cả cuộc sống cung đình, cuộc sống của bao người bình dị nơi thị thành thôn xóm, thế giới chim thú, cỏ hoa và cả thế giới của các tiên nữ, các tạo vật thần linh trên thiên giới nữa. Một cuộc sống sôi nổi, hưng phấn và đầy đam mê. Những bức tranh thiếu nữ trong hang A Chiên Đà Thạch quật cổ đại được thể hiện rất quyến rũ với những đường cong mềm mại, thần thái sinh động trong từng ánh mắt, từng nét môi say đắm và e lệ.

Các nghệ nhân còn khéo lợi dụng sự phân bố ánh sáng để người xem khi chuyển dịch vị trí có thể thấy nhân vật trong tranh như chớp mắt, hé cười, hết sức sống động. Có thể nói, nghệ thuật Phật giáo đã sử dụng vẻ đẹp của thế giới vật chất như một phương tiện để hướng đạo khát vọng các tín đồ với vẻ đẹp tâm linh của Giác ngộ chân mạnh của nó nằm ở chính thông điệp của Đấng Giác Ngộ kêu gọi Tri kiến của chúng ta chế ngự, vượt qua những cạm bẫy cám dỗ. Vượt qua những hình thức ảo ảnh, giả ngụy của cái đẹp, ta sẽ thấy cái đẹp đích thực.

ajanta (1)ajanta (1)ajanta (1)ajanta (2)ajanta (3)ajanta (4)ajanta (5)ajanta (6)ajanta (7)ajanta (8)ajanta (9)ajanta (10)ajanta (11)ajanta (12)ajanta (13)ajanta (14)ajanta (15)ajanta (16)ajanta (17)ajanta (18)ajanta (19)ajanta (20)ajanta (21)ajanta (22)ajanta (23)ajanta (24)ajanta (25)ajanta (26)ajanta (27)ajanta (28)ajanta (29)ajanta (30)ajanta (31)ajanta (32)ajanta (33)ajanta (34)


Những hàng dài tượng Phật được đục đẽo bằng thủ công và những bức tượng Phật lớn trong hang là những công trình nghệ thuật tuyệt tác của Phật giáo Ấn Độ.

Nếu đến thăm quan A Chiên Đà Thạch quật cổ đại, nơi đây du khách sẽ phải thực sự ngạc nhiên trước khung cảnh hết sức hùng vĩ và các tuyệt tác. Ngay từ những bước chân đầu tiên, du khách sẽ phải choáng ngợp trước hàng dài tượng Phật được đục đẽo bằng thủ công ở mặt tiền của hang động. Vào sâu trong hang, cả một câu chuyện lịch sử về quá trình Giác ngộ, khổ công tu luyện gian khổ của đức Phật sẽ được thể hiện qua hàng loạt các tác phẩm điêu khắc trong hang.

Trong số những tác phẩm nghệ thuật ở đây có những tác phẩm đã đạt được đến vẻ đẹp đỉnh cao và trở thành tuyệt tác. Điều gây ấn tượng hơn nữa đó là cách mà những người thợ xa xưa đã tạo nên các tác phẩm nghệ thuật của mình.

Theo một số tài liệu, nguyên liệu chính để làm nên những bức vẽ chính là đá cuội và các loại rau quả. Rau quả được nghiền nát ra để tạo thành một chất keo, sau đó được nghiền tiếp và các viên sỏi đầy màu sắc để tạo ra một loại sơn cho những tác phẩm này.

Những chất liệu được người xưa nghiên cứu và tìm tòi đã được chứng minh và kiểm nghiêm qua thời gian hàng trăm năm, cho đến hôm nay vẫn giữ được vẻ đẹp của nó. Chính điều này càng làm tăng thêm giá trị về văn hóa lịch sử cho công trình A Chiên Đà Thạch quật cổ đại.

Nghệ thuật kiến trúc Phật giáo A Chiên Đà Thạch quật cổ đại, có thể được cho cha đẻ của một ảnh hưởng lớn đến các hang động nghệ thuật Phật giáo sau này. Các thế hệ tương lai sẽ mô phỏng truyền thống này để phát dương quang đại, cho các tượng Phật lớn nhất thế giới tại Bamiyan, Afghanistan, một kỳ quan Phật giáo tinh xảo và lớn nhất thế giới, Borobudur, Indonesia, Angkor Wat, Campuchia, Thạch động Đôn Hoàng (Thiên Phật Động) tỉnh Cam Túc, Trung Quốc, Thạch động Vân Cương, phía Nam chân núi Vũ Châu, phía Tây thành phố Đại Đồng, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, Thạch động Long Môn, phía nam, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc...và nhiều hơn nữa.


Video

印度古文明驚豔之旅-阿姜陀 阿姜陀石窟

https://www.youtube.com/watch?v=XQR0RtuxZsE

南印度阿旃陀石窟26號洞窟 Ajanta Caves (India)

https://www.youtube.com/watch?v=9QSi6jw2Pao

印度阿旃陀石窟,雕塑艺术精品

https://www.bilibili.com/video/BV1L4411S7BB/


Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: 百度百科)

https://whc.unesco.org/en/list/242/gallery/

https://www.ntdtv.com/gb/2019/02/19/a102515252.html

https://www.gq.com.tw/life/content-33726

facebook-1

***
youtube
 






 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/09/2020(Xem: 19531)
Thư gởi Chư Thiện tri thức trong và ngoài nước..nhân Tết Nhi Đồng 2020 (HT Thích Tuệ Sỹ)
24/09/2020(Xem: 8794)
Thật là một đại duyên cho những ai là Phật tử tại gia như tôi lại được nghe lời chỉ dạy vừa tâm tình của Sư Phụ Viên Minh vào ngày thứ bảy của khoá thiền khoá 20 (20/9/2020) tại tổ đình Bửu Long như sau : " Ai cũng cho Thầy là người " ba phải "vì Thầy thường trích dẫn những ý tưởng của các Tông phái khác , nhưng đúng ra phải gọi Thầy là "người chục phải "vì ở mỗi Tông phái nào Thầy đều nhìn thấy những điểm hay, tốt và vì vậy Thầy chưa bao giờ phân biệt tông phái nào cả chỉ là nhập gia tuỳ tục thế thôi , vô ngại ...
21/09/2020(Xem: 12449)
Một trong những điểm đặc thù từ giáo pháp của Đức Phật chính là tinh thần Trung đạo - không rơi vào cực đoan khổ hạnh ép xác hay thú hướng dục vọng. Biện chính giáo pháp để làm lộ rõ con đường Trung đạo cũng là một phương thức hoằng pháp. Có thể sự biện chính chỉ là quan kiến cá nhân và đôi khi đi xa hơn vấn đề cần biện chính, nhất là những biện chính liên quan đến lát cắt của một phần tổng thể văn bản. Dẫu vậy, toàn bộ nội dung bài viết vẫn hướng đến mục đích làm sáng tỏ thêm con đường Trung đạo, tránh sự hiểu nhầm đáng tiếc đối với những Phật tử sơ cơ. Nguyệt San Giác Ngộ xin trân trọng giới thiệu bài viết đến với quý độc giả. NSGN Bài “Quan điểm của Phật giáo về vấn đề kinh tế” của Hòa thượng Tinh Vân (Phước Tâm dịch, Nguyệt san Giác Ngộ số 189, tháng 12-2011, trang 36), có một đoạn viết:
29/08/2020(Xem: 2587)
Khi được một bằng hữu tặng cho một quyển sách hay và quý, bạn vui vẻ nhận lấy, khen sách trình bày đẹp, đề tài lạ lẫm hấp dẫn, cảm ơn, rồi nhập vào hàng hàng lớp lớp những sách báo trên kệ tủ của mình, nói là từ từ khi nào rảnh rang sẽ đọc sau, rồi quên bẳng luôn, không sờ đụng đến lần nào nữa. Nếu vị bằng hữu đó mà biết được bạn đã đối xử với món quà tặng văn hóa, món quà tinh thần và nghĩa tình kiểu như vậy, chắc vị đó sẽ buồn lắm. Làm người khác buồn, là bạn đã mang tội. Trong trường hợp vị bằng hữu đó không hề hay biết gì hết, bạn vẫn mang tội, chứ không phải vô tội. Tội đó là tội xem thường.
27/08/2020(Xem: 5628)
Kính chiếu yêu ma bài viết của Cư Sĩ Huệ Hương (ở Melbourne, Úc Châu) Do Phật tử Diệu Danh (Hannover, Đức Quốc diễn đọc) Mười năm về trước khi đọc " CỬA TÙNG ĐÔI CÁNH GÀI " của Sư Ông Làng Mai Thích Nhất Hạnh tôi vẫn không hề nghĩ đến có ngày mình phải dùng kính chiếu yêu này ... không phải cho người khác bên ngoài mà chính là dùng để soi rọi vào những con ma đang ẩn núp trong rừng tâm của tôi quá chằng chịt và rậm rạp nơi mà tập khí được chôn vùi và đã trở nên hoang dại đến nỗi rất khó để tháo gở được những rễ dây đã bám sâu trong đất Tâm này
14/08/2020(Xem: 5552)
Thuở trung học, tôi rất yêu môn toán. Những con số cộc lốc khô khan nhưng rõ ràng 1 với 1 là 2 đi vào đầu tôi êm ái nhẹ nhàng hơn những bài văn thơ trữ tình, ướt át. Tôi rất dốt, thường đội sổ môn Việt văn. Giữa khi một đề bài Thầy, Cô đưa ra: “Hãy tả tâm trạng cảm giác của em khi một ngày dự định đi chơi mà bị mưa không đi được„ Bạn tôi, đứa “sơ mi„ (nhất điểm) luận văn khi phát bài luôn được đọc cho cả lớp nghe, viết: “Thế là hôm nay em phải ở lại nhà vì một trận mưa như trút nước. Mưa càng lúc càng nặng hạt, dai dẳng suốt từ chiều hôm qua. Bầu trời vẫn còn u ám, xám xịt, không có dấu hiệu của một trận mưa sắp dứt, một ngày quang đãng. Em buồn nằm nhà, cuộn mình trong chăn nghe bên ngoài mưa rơi tí tách, gõ nhịp trên máng xối„ Thì bài của tôi: “Đùng...đùng...tiếng sét nổ vang. Nhìn ra bên ngoài bầu trời đen thui rồi nước ở đâu từ trên máng xối đổ xuống ào ào. Nước mưa chứ ai. Ghét dễ sợ. Không được đi chơi như dự định rồi. Buồn thỉu buồn thiu„ Bài viết cộc lốc khô cứng như cục đá. Ng
13/08/2020(Xem: 11324)
Ngày anh ra đi, tôi không được biết. Một tuần sau, Xuân Trang gọi điện thoại từ Mỹ báo tin anh đã mất. Tôi lên đồi thông Phương Bối, chỉ nhìn thấy anh ngồi trên bàn thờ với nụ cười châm biếm, ngạo nghễ mà tôi thường gặp mỗi lần lên thăm chị Phượng và các cháu. Tôi được biết gia đình anh Nguyễn đức Sơn qua sư cô Chân Không. Dạo ấy, khoảng năm 1986, sư cô có nhờ tôi cứ 3 tháng mang số tiền 100 usd lên cho gia đình anh. Tới Bảo Lộc tôi nhờ 2 người con của Bác Toàn dẫn tôi lên gặp anh. Trước khi đi, bác Toàn có can ngăn tôi: Cô đừng đi, đường lên Phương Bối khúc khuỷu, cây rừng rậm rạp khó đi, hơn nữa ông Sơn kỳ quái lắm, ông ấy không muốn nhận sự giúp đỡ, mà nếu có nhận, ông ấy không cảm ơn, còn chửi người cho nữa. Tôi mỉm cười: Không sao đâu, tôi chịu được mà! Đường lên Phương Bối khó đi. Chúng tôi lách qua đám tre rừng, thật vất vả. Cơn mưa cuối mùa và gió lạnh đang kéo tới, chúng tôi phải đi nhanh để kịp đến nhà ông Sơn, một nhân vật quái đản -theo lời nhận xét của gi
09/08/2020(Xem: 12212)
Là một nhà văn, một nhà thơ, một nhà báo, và là một người tuyên thuyết Phật pháp – trong vị trí nào, Vĩnh Hảo cũng xuất sắc, và nổi bật. Tài hoa của Vĩnh Hảo đã hiển lộ từ các tác phẩm đầu thập niên 1990s, và sức sáng tác đó vẫn đều đặn trải dài qua hai thập niên đầu thế kỷ 21. Vĩnh Hảo viết truyện dài, truyện ngắn, làm thơ, viết tùy bút, viết tiểu luận – thể loại văn nào anh viết cũng hay, cũng nổi bật hơn người. Giữ được sức viết như thế thực là hy hữu. Thể hiện nơi ngòi bút rất mực văn chương, Vĩnh Hảo chính là một tấm lòng thiết tha với đất nước, với đạo pháp, với con người. Tấm lòng đó hiện rõ trong từng hàng chữ anh viết, đặc biệt là trong 100 Lá Thư Tòa Soạn của Nguyệt San Chánh Pháp, là nội dung của sách này với nhan đề Lời Ca Của Gã Cùng Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]