Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hạnh Phương: Nhạc sĩ Hằng Vang thầm lặng cuộc đời để dòng nhạc Phật giáo bay xa

03/02/202107:43(Xem: 13441)
Hạnh Phương: Nhạc sĩ Hằng Vang thầm lặng cuộc đời để dòng nhạc Phật giáo bay xa
nhac-si-hang-vanga-nguoiphattu-com0-2814
Tác giả với nhạc sĩ Hằng Vang (phải)



Vừa qua nhóm ảnh Nhất Chi Mai thuộc tu viện Phước Hòa (Đồng Nai), được sự hướng dẫn của Thượng toạ Viện chủ đã đến Buôn Mê Thuột để quay những thước phim đầu tiên về nhạc sĩ Hằng Vang. Cùng với cố nhạc sĩ Lê Cao Phan, Bửu Bác... được xem như lớp tiền phong của dòng tân nhạc Phật giáo.

Nhạc sĩ Hằng Vang tên thật là Nguyễn Đình Vang, sinh năm 1933 tại Huế. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông có hàng trăm ca khúc về đề tài này, nổi bật nhất là ca khúc Ánh Đạo vàng (1958) đã thấm sâu vào lòng Phật tử suốt thời gian dài từ khi ra đời.

Tháng 2-1965, với ca khúc Lời sám nguyện, ông được trao giải nhất cuộc thi sáng tác ca khúc Phật giáo lần đầu tiên được GHPGVNTN tổ chức tại nhà hát lớn Sài Gòn. Ban giám khảo gồm những nhạc sĩ uy tín lúc bấy giờ như: Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba, Thẩm Oánh, Nghiêm Phú Phi...

Nhân sự kiện này xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Hạnh Phương về nhạc sĩ Hằng Vang để chúng ta hiểu thêm về cống hiến của ông đối với âm nhạc

Phật giáo nói riêng và văn hoá Phật giáo nói chung:

Nhạc sĩ Hằng Vang


Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang. Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của anh. Thiết tưởng không cần bàn cãi bổ khuyết gì thêm.


Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh; rằng: Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc này ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác từ phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của Phật giáo Việt Nam và đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc và sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ của đạo Phật.


Ngay từ khởi nguyên phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam, từ thế kỷ trước đến hiện đại các sử gia viết lịch sử âm nhạc Phật giáo Việt Nam, đã ghi tên Bửu Bác với nhạc lễ Trầm hương đốt, Lê Cao Phan với hành khúc Phật giáo Việt Nam, thì không thể không ghi tên Hằng Vang với ca khúc Ánh Đạo vàng.


Từ thập niên 50, 60 thế kỷ trước, tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam, mỗi mỗi buổi đến chùa sinh hoạt, đã trở thành tập quán, khóa lễ tụng cho toàn đoàn bên trong chánh điện, vị huynh trưởng chủ lễ niêm hương bạch Phật xong là cử hát Trầm hương đốt đồng ca cho tất cả đoàn sinh như là đồng tâm chí thành dâng nén tâm hương cúng dường chư Phật.


Khi ra sân toàn thể đoàn sinh lại hàng ngũ chỉnh tề, bàn tay mặt đưa lên ngang vai, kiết ấn cát tường đồng ca bài ca Sen trắng, là bài đoàn ca chinh thức của Gia đình Phật tử Việt Nam. Sau đó mới phân ra từng đoàn sinh hoạt học tập giáo lý. Riêng ca khúc Ánh Đạo vàng của nhạc sĩ Hằng Vang thì thường được hát lên theo từng bối cảnh sinh hoạt riêng.


Ngay từ tuổi oanh vũ đồng ấu, các em đã thường được nghe các anh chị hát cho nghe, tập cho hát ca khúc Ánh Đạo vàngÁnh Đạo vàng được hát đơn ca, hoặc song ca trong giờ sinh hoạt văn nghệ của đoàn và nhất là thường được hát lên trong những đêm văn nghệ sân khấu… Chính vì thế mà những âm giai cung bậc ca từ của ca khúc Ánh Đạo vàng len lõi, âm thầm dạt dào sống mãi trong tâm thức người Phật tử Việt Nam.

Hát Ánh Đạo vàng là biết Hằng Vang, hát Ánh Đạo vàng là khái quát biết lịch sử Đức Phật. Lời ca tiếng hát của ca khúc giản dị đến mức không thể giản dị hơn, cô đúc không thể cô đúc hơn.


Hát Ánh Đạo vàng là tuổi thơ tôi, và có lẽ của tất cả các đoàn sinh oanh vũ có ngay một khái niệm tổng quát lịch sử Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Và tổng thể khái niệm ấy như một định hình chân lý về cuộc đời đức Phật, về tam thân, báo, ứng và hóa thân Phật, từng ca từ cùa Ánh Đạo vàng khi đã được nghe, khi đã cất lên tiêng hát sẽ lắng sâu vào tiềm thức, lắng đọng mãi thành hạt giông trong tàng thức, để rồi mỗi khi ta cất tiếng hát lên, lập tức ta thấy Phật, thấy đầy đủ tam thân của Ngài.


Duyên lành tao ngộ

Trên dòng chảy thời gian vô tận, không gian vô biên, thân người thì điện ảnh, như tia chớp, tôi quả thực đã rất bất ngờ khi có duyên lành được hạnh ngộ nhạc sĩ Hằng Vang, bất ngờ và bâng khuâng xúc cảm khi mà từ tuổi oanh vũ, mười… mười lăm tuổi mình đã hát thuộc bài hát của anh, nay đã sáu mươi ngoài mình lại có cơ duyên hạnh ngộ anh.

Hôm ấy, anh về thăm gia đình nhà thơ Thanh Trúc tại ấp Thọ Bình, xã Xuân Thọ, huyện Xuân Lộc, Đông Nai. Anh đã từng biết đến thơ tôi trên các trang báo, tạp chí Phật giáo qua thầy Thanh Trúc anh biết nơi tôi ở “quanh quất đâu đây” vì thế anh điên thoại báo tin và nhờ thầy Thanh Trúc hướng đạo tìm tới tận nhà tôi.


Đã từng biết nhau qua chữ nghĩa, qua lý tưởng tôn thờ, phụng sự chúng tôi không rôm rã xôm tụ chuyện trò cứ chậm rãi từ tốn tâm tình đôi điều gì đó về việc nhà, việc Phật. Nhưng qua buổi sơ ngộ nầy tôi đã thấy được phần nào bản thân người nhạc sĩ từ hòa nầy, tôi xác quyết: Anh Hằng Vang đúng là một người Phật tử chân chính. Và nhất là cả cuộc đời anh tận hiến cho nền âm nhạc Phật giáo Việt Nam, lấy âm nhạc làm phương tiện hàm dưỡng khát vọng hướng tới phương trời cứu cánh giác ngộ, giải thoát khổ đau sanh tử cho mình, cho người.

Xuyên suốt từ thời kỳ chấn hưng Phật giáo đến tận bây giờ, người nhạc sĩ Phật tử chân chính ấy vẫn nhất mực trung trinh với lý tưởng và sự nghiệp ấy.

Nói như thế để nói thêm về anh nhiều hơn, chứ không thể duy nhất chỉ nói đến Ánh Đạo vàng.


Chủ đề Đạo


Là nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, không nhiều thì ít không ai không chạm vào mảng chủ đề tình yêu. Nhạc sĩ Hằng Vang không thể ngoại lệ, anh cũng viết về tình yêu đấy chứ. Nhưng xuyên suốt cuộc đời sáng tác, sáng tạo của anh phần lớn vẫn cứ là lý tưởng từ bi, trí tuệ, dõng mãnh của Đạo Phật làm nền tảng căn bản cho sự nghiệp của mình.


Thử thống kê sơ lược nhan đề những nhạc phẩm cùa anh:

Chủ đề Phật: Ánh Đạo vàng, Ca mừng Phật đản, Cảm niệm Ca tỳ la thành, Ca mừng Thành đạo, Kính mừng Phật Đản (1957), Ngày đẹp trần gian, Trang Phật sử... Mảng chủ đề này cho thấy, nhạc sĩ am tường lịch sử Đức Phật, thấm nhuần tư tưởng đạo lý từ bi và tuệ giác Phật hiện thân vào đời cứu khổ độ sanh, chỉ riêng ca khúc Ánh Đạo vàng thôi đủ cho chúng ta thấy rõ điều đó.

Và xuyên suốt tác phẩm mảng chủ đề này, Nhạc sĩ Hằng Vang với tất cả tài hoa bình dị của mình, với bao âm giai cung bậc ngọt ngào chuyển tải tư tưởng tình cảm ấy đến đại đa số quần chúng Phật tử Việt Nam.

Chủ đề Vu lan: Bồ tát Quán Thế Âm, Hiếu đạo: Mẹ linh cảm tầm thanh, Mẹ hiền Quán thế âm, Mẹ ơi, Mẹ là suối ngọt từ bi, Mẹ quê hương, Mẹ và hơi thu, Trăng quê tình mẹ, Gia tài của Ba...


Hầu hết các văn nghệ sĩ Phật giáo đều có tác phẩm liên hệ chủ đề Vu lan, hiếu đạo, và tín ngưỡng Bồ tát Quán Thế Âm. Ngôn ngữ chủ đề Vu lan trong âm nhạc anh luôn trong sáng, không bi lụy thở than bi đát..anh nhắc nhở người con Phật hướng tâm về báo ân, báo hiếu cha mẹ...

Gương hiếu hạnh: Cao quý thay tình nghĩa vuông tròn Công ơn cha mẹ cho con hình hài Mẹ chăm lo nuôi con khôn lớn Cha dẫn đắt con vững bước vào đời...

Vậy đó, anh không cần hoa ngôn mỹ ngữ, với một ngôn ngữ trong sáng, bình dị, anh trao truyền thông điệp Hiếu hạnh, Vu lan đến với đại đa số người con Phật. Ngay trong bản thân gia đình anh, thiết tưởng chỉ riêng bài hát Gia tài của Ba, anh cũng đã trao truyền được thông điệp nầy cho con cái của anh.

Gia tài của Ba: Có lẽ cảm thụ được tinh thân thông điệp hiếu đạo anh trao truyên cho các con cháu anh, các cháu đã lấy nền tảng tư tưởng hiếu đạo vào đời, và đã tựu thành những hoa thơm quả ngọt dâng lên cha mẹ. Ở đây tôi muốn gợi nhắc đến một tác phâm lớn của nhạc sĩ Hằng Vang, tác phẩm Gia tài của Ba, do nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành 18-1-2012, gồm 108 ca khúc do chính cô con gái đầu lòng của anh biên tập và lo lắng, quán xuyến việc xuất bản cho anh, thể hiện tròn đầy hằng tâm hiếu thuận của mình.

Chủ đề Đoàn ca (ca nhạc cho các em Phật tử sinh hoạt): Em mong mùa sen nở (1957) Kết niềm tin, Oanh vũ ngoan, Phát nguyện hoằng dương, Tình đạo, Vui sông lục hòa…


Mảng chủ đề nầy anh đã hiến tặng cho tuổi trẻ gia đình Phật tử Việt Nam một lượng ca khúc đầy đặn trữ lượng Phật chất, hoàn thiện nhân cách người Phật tử cho con cháu chúng ta, trong mọi tình huống sinh hoạt đời thường, lòng trung trinh lý tưởng đem đạo vào đời, Phật hóa phổ gia đình thế tục thành gia đình Phật giáo.


Chủ đề lịch sử Phật giáo Việt Nam: 
Việt Thiền Sơ tổ, Lửa Từ bi, Lửa sáng niềm tin, ánh lửa Nhất Chi Mai... Mảng chủ đề này nhạc sĩ Hằng Vang đã tự dấn thân cuộc sống đời thường của bản thân hòa mình vào dòng chảy lịch sử Phật giáo dân tộc.

Mảng thơ phổ nhạc: phổ thơ của các nhà thơ: Thích Nhất Hạnh,Thích Quang Đạo, Thích Thông Bửu, Thich Chân Tính, Thích Nhật Từ, Huyền Lan,Tản Đà, Chu Mạnh Trinh, Vũ Hoàng Chương, Trụ Vũ, Bùi Giáng, Tống Anh Nghị, Lam Luyến, Minh Thịnh, Nguyễn Thị Ngà, Trần Quang Hưng, Thu Nhi, Quang Minh, Từ Xuân Lãnh, Dzạ Lữ Kiều, Tạ Nghi Lễ, Thanh Trúc, Hạnh Phương, Nguyễn Khánh Phước Hải, Bảo Cường, Tôn Nữ Hỷ Khương, Hoàng Hương Trang, Hồ Đác Thiếu Anh, Vô Biên, Vương Chi Lan, Tiến Thảo, Thu Nhi, Huyền Diệu Hương, Tạ Nghi Lễ, Sơn Cư, Nguyễn Phi Trinh, Hướng Dương, Huyền Linh Tử, Nguyễn Duy Khương, Thiện Hữu, Mặc Giang, Nhất Phương, Siêu Luân, Chiêu Đề, Mặc Giang, Tuyết Hương, Trương Nguyễn,Quang Huy…

Chủ đề tình tự quê hương: Hoài cố đô 1, 2, 3, 4 và 5, Về thăm chùa Huế, Thương về Đông Hà, Hương Ban Mê, Về Phố cổ Hội An, Chùa Hương, Linh Thắng…


Mảng chủ đề tình tự quê hương cho chúng ta thấy anh đi đây đó khá nhiều. Nhưng đi đâu thì đi dấu ấn nhiều thắng tích trong âm nhạc của anh vẫn là những cung bậc giai điệu viết về chùa chiền, những phương sở đượm nhuần tín ngưỡng Phật giáo.

Nhất là về nơi quê quán anh sinh ra, anh có những năm ca khúc Hoài Cố Đô, rồi thì Về Thăm Chùa Huế...


Hạnh Phương 
(2019


 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/09/2018(Xem: 6913)
Trên chuyến bay đến Thượng Hải, vào giờ ngủ, bên trong máy bay đã tắt đèn, tôi phát hiện những người còn thức chơi “IPad” hầu hết là người Á châu – Họ đều đang chơi “game” hoặc xem phim. Thật ra ngay từ khi ở sân bay quốc tế Frankfurt, tôi đã thấy phần lớn hành khách người Đức đang yên tĩnh đọc sách hay làm việc; còn đa số khách Á châu đi lại mua sắm hoặc cười nói so sánh giá cả.
03/09/2018(Xem: 18122)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
03/09/2018(Xem: 12110)
Cảm Đức Từ Bi (sách pdf) của Cư Sĩ Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
28/08/2018(Xem: 6390)
Trong bài Đôi dòng cảm nghĩ về cuốn Võ Nhân Bình Định của Quách Tấn và Quách Giao do nhà xuất bản Trẻ phát hành vào năm 2001, Giáo sư Mạc Đường, nguyên viện trưởng viện Khoa Học xã hội TP.HCM có cho biết rằng, họ Quách, mặc dù ông tổ vốn dòng Mân Việt nhưng không chịu sống dưới chế độ Mãn Thanh nên đã rời bỏ Trung Quốc di dân sang Việt Nam. Đến thế hệ Quách Tấn và con là Quách Giao đã trên 300 năm. Vì sống tại Tây Sơn đã nhiều thế hệ “ nên họ Quách có biết dược nhiều sự kiện lịch sử ở địa phương. Nhất là thời đại Tây Sơn và phong trào Cần Vương. Gia phả của họ Quách đều có ghi lại các sự kiện lịch sử quan trọng này.
26/08/2018(Xem: 3755)
Những ngày cuối hạ oi bức, không làn gió thoảng. Cây cối trơ ra như những tượng đá trong vườn thần chết. Mọi thứ như dừng đứng để chờ đợi một phép lạ. Tuần trước, rừng ở quận hạt lân cận bị cháy suốt mấy ngày khiến bầu trời mù mịt khói đen, nắng không xuyên qua được, chỉ ửng lên cả một vùng trời màu vàng nghệ lạ thường. Nay thì trời trong không một gợn mây. Bầy quạ đen lại tranh nhau miếng mồi nào đó, kêu quang quác đầu hè. Rồi im. Bầy chim sẻ đi đâu mất dạng gần một tháng hè gay gắt nắng. Bất chợt, có con bướm cánh nâu lạc vào khu vườn nhỏ. Và gió từ đâu rung nhẹ những nhánh ngọc lan đang lác đác khai hoa, thoảng đưa hương ngát hiên nhà. Phép lạ đã đến. Gió đầu thu.
20/08/2018(Xem: 4725)
Đọc “Đường vào luận lý” (NYÀYAPRAVESA) của SANKARASVAMIN (Thương Yết La Chủ), Cầm quyển sách trên tay độ dày chỉ 290 trang khổ A5 được nhà xuất bản Hồng Đức tại Việt Nam in ấn và do Thư Viện Huệ Quang ở Sài Gòn phát hành, lại chính do Giáo Sư Lê Tự Hỷ ký tặng sách giá trị nầy cho chúng tôi vào ngày 14 tháng 7 năm 2018 nầy, nên tôi rất trân quý để cố gắng đọc, tìm hiểu cũng như nhận định về tác phẩm nầy.
15/08/2018(Xem: 7895)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 4396)
Nếu “lá sầu riêng„ chúng ta ví biểu tượng của sự hy sinh, kham nhẫn, nhịn nhục, chịu sầu khổ riêng mình không muốn hệ lụy đến ai, thì Lá Sầu...Chung, một giống lá mới trồng hôm nay phát sinh từ lòng nhỏ nhen, ích kỷ sẽ đem sầu khổ chung cho bao người. Đó là nội dung của vở bi kịch sau đây qua sự diễn xuất của hai mẹ con. Kính mời Quí vị thưởng thức. Đây, bi kịch “Lá Sầu Chung„ bắt đầu.
11/08/2018(Xem: 11976)
Bà hiện còn khỏe, minh mẫn, sống ở Nha Trang. Bà thành hôn với nhà văn B.Đ. Ái Mỹ 1940, cuộc tình sau 47 năm (tức năm phu quân mất 1987), bà sinh hạ 14 người con: 7 trai, 7 gái. Tất cả 14 người con của bà đều say mê âm nhạc, thích hát và hát hay, nhất là người con thứ ba - Qui Hồng. Hơn ½ trong số này cầm bút, làm thơ, viết văn, vẽ, điêu khắc và dịch thuật. Người có trang viết nhiều nhất là người con thứ 10: Nhà văn Vĩnh Hảo, với 13 đầu sách đã phổ biến… Bà là nữ sĩ nổi tiếng không những về thơ ca mà còn cả thanh sắc, thêm vào tính tình hiền diu, đằm thắm nên được văn thi hữu thời bấy giờ quí trọng. Bà là nữ sĩ nổi danh từ thập niên 30 vế cả ba mặt Tài, Sắc và Đức.
09/08/2018(Xem: 8140)
Nghĩ Về Mẹ - Nhà Văn Võ Hồng, Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Tựa cửa hôm mai là lời của mẹ Vương Tôn Giả. Mẹ bảo Vương: "Nhữ chiêu xuất nhi vãng lai" mày sáng đi mà chiều về, "tắc ngô ỷ môn nhi vọng" thì ta tựa cửa mà trông. "Mộ xuất nhi bất hoàn" chiều đi mà không về, "tắc ngô ỷ lư nhi vọng" thì ta tựa cổng làng mà ngóng. Hai câu mô tả lòng mẹ thương con khi con đã lớn. Trích dẫn nguyên bản để đọc lên ta xúc cảm rằng bà mẹ đó có thật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]