Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lý Việt Dũng – Một học giả… ‘vô sư tự ngộ’!

11/11/202016:05(Xem: 9942)
Lý Việt Dũng – Một học giả… ‘vô sư tự ngộ’!

Lý Việt Dũng – Một học giả… ‘vô sư tự ngộ’!

Trong quyển Yếu giải kinh A Di Đà lần đầu tiên xuất bản ở Việt Nam cũng như trên thế giới được in cả nguyên tác bằng chử Hán của Đại sư Linh Phong Ngẩu Ích cùng bản dịch Anh ngữ của Tiến sỉ J.C. Cleary và phần dịch sang Việt ngữ có chú giải của chính mình, học giả Lý Việt Dũng đã… “tự bạch” về “tiểu sử dài lòng thòng đáng chán của Song Hào Lý Việt Dũng”.

Trong đó ông thẳng thắng nhận rằng: “Về quan điểm cuộc sống, tôi là người lạc quan tếu… Tôi cũng chay mặn tùy duyên, không bó thân trong những giới luật xa rời cuộc sống, chẳng có bổn sư vì chẳng quy y ai, chẳng có giới xơ cứng để giữ, sống đa cảm tự tại, có hơi “quậy” một chút!”.


dnp-ly-viet-dung-mot-hoc-gia-vo-su-tu-ngo-2Chân dung Lý Việt Dũng (Ảnh: Khắc Giới)

Thượng tọa Thích Hiền Đức – trụ trì chùa An Phú (TPHCM) người “bạn lòng dù đạo đời đôi ngã, nhưng luôn sát cánh nhau trong các công tác Phật sự” cũng nói về học giả Lý Việt Dũng với thái độ chân tình: “Tôi rất ái mộ phong cách ngổ ngáo, tiếu ngạo, sống rất trung thực trọn vẹn với chính mình của ông thuộc phần đời cũng như tư duy khoáng đạt, thung dung tự tại, siêu thoát Phật lý thuộc phần đạo của học giả”.

Thầy Thích Tịnh Tấn (Am Tịnh Tấn Sơn – Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng) cho biết: “Tôi với học giả không có mối thâm giao từ trước, nhưng qua thăm hỏi và theo dõi trên mạng tôi được biết ông là một học giả chân tài và rất thoáng trong giao du với mọi người. Thế là không bỏ công đường xa trở ngại, tôi đã từ Lâm Đồng đi xe đò dần mò hỏi thăm và đến được xóm Cầu Ván, xã An Hòa (Bến Gỗ). TP. Biên Hòa, gặp ông tại nhà. Thật là lời đồn không ngoa, đây là một cụ già tuổi đã cận kề 80 mà còn rất quắc thước nhanh nhẹn, tánh tình lại rất cởi mở hài hòa và qua một buổi hàn huyên đủ mọi đề tài, tôi vui mừng xác nhận đây là một học giả rất có biệt tài phiên dịch Hán tạng qua ba mảng Thiền, Tịnh, Mật”.

Những nhận xét chân thực nầy dường như cũng chưa khắc họa đầy đủ chân dung cũng như tính cách của một nhân vật thuộc vào hàng…” độc” và “hiếm” trong giới nghiên cứu, biên dịch chuyên sâu về Phật học và văn hóa phương Đông hiện nay: Song Hào Lý Việt Dũng.

dnp-ly-viet-dung-mot-hoc-gia-vo-su-tu-ngo-3
Ông Lý Việt Dũng đọc và giải nghĩa sắc thần vua triều Nguyễn phong
tặng kinh lược sứ Nguyễn Hửu Cảnh tại lễ giỗ của Đức Ông tại đền thờ ở Cù lao Phố Biên Hòa


“Kỷ lục gia” dịch sách Phật học

Gần đây, trong một bài trả lời phỏng vấn, học giả Lý Việt Dũng còn thẳng thắng so sánh trình độ của mình với người cùng dịch thuật chung nhiều công trình nghiên cứu về Phật giáo là Hòa thượng Thích Phước Sơn (Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam): “Thật tình mà nói, nếu ráng tìm cái gì đó khác nhau giữa tôi với Hòa thượng Phước Sơn thì có lẽ là điều nầy, Hòa thượng cũng công nhận, khả năng về thiền của tôi nhỉn hơn Hòa thượng tí xíu, tức là nắm bắt ý nghĩa và thiền lý có phần nào nhạy bén hơn, nhưng xem xét vấn đề một cách tỉ mỉ chuẩn xác thì tôi thua xa Hòa thượng”.

Cũng cần phải nói, “độc” và “hiếm” ở đây là trường hợp một người được xem là cư sĩ tại gia như ông Lý Việt Dũng lại được Giáo hội Phật giáo mời giảng dạy Thiền ngữ tại Học viện Phật giáo Việt Nam ở Thành phố Hồ Chí Minh, được các sư trụ trì chùa Viên Giác, chùa Kim Cương… mời giảng dạy và luyện dịch Hán tạng cho hàng trăm tăng sinh…


Và phải công nhận Song Hào Lý Việt Dũng có sức làm việc thật phi thường. Sống trong hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, lại đau bệnh “đọc sách cũng phải nằm võng, nếu ngồi bàn sẽ bị nghẻn tĩnh mạch, hai chân sưng vù”. Thế nhưng vẫn đều đều mỗi năm ông cho ra mắt 3 ấn phẩm, phần lớn là phiên dịch kinh điển Phật giáo với số trang thật… “nặng ký” (trên dưới 1.000 trang/quyển).

Tính đến nay, học giả Lý Việt Dũng đã có trên 40 đầu sách do ông biên dịch, biên soạn và biên khảo. Trong đó có những bộ sách Thiền tông Trung Hoa đồ sộ và rất nổi tiếng như: Cảnh Đức truyền đăng lục, Thiền tông Vô môn quan, Ngũ đăng hội nguyên, Cao tăng truyện… Trước đây, ở Việt Nam chỉ mới được trích lược hoặc giới thiệu sơ nét chứ chưa phiên dịch và chú giải do những bộ sách nầy có dung lượng quá lớn, nội dung lại thâm sâu, khó hiểu cả phần thiền ý lẫn văn lý (hầu hết sử dụng từ Hán cổ).


dnp-ly-viet-dung-mot-hoc-gia-vo-su-tu-ngo-10


Nổi bật trong mảng sách Phật giáo, ngoài những bộ sách về Thiền rất đồ sộ vừa kể, học giả Lý Việt Dũng còn phiên dịch cả Hiển Mật tu học pháp yếu từ nguyên tác Tạng ngữ, Yếu giải kinh A Di Đà (Thập yếu Tịnh độ); biên soạn quyển Tổng hợp về Tịnh độ tông, Tóm tắt 300 bộ kinh luận Phật giáo danh tiếng, Gợi ý 1.130 công án Thiền tông Hoa Việt… Đặc biệt là cùng Hòa thượng Thích Phước Sơn dịch thuật quyển Thiền môn nghi thức (có nội dung quy định toàn bộ luật lệ, giới luật của chùa Thiền tông, được biên soạn đời Đường, trùng biên đời vua Thuận Đế nhà Nguyên) thành Sắc tu Bách Trượng thanh quy (trọn bộ 2 cuốn, xuất bản năm 2010 và tái bản ngay trong năm) được các chùa trong nước dùng làm nền tảng giới luật sinh hoạt cho chư tăng ni hiện nay.

Theo lời kể của ông Lý Việt Dũng, chuyện ông và Hòa thượng Thích Phước Sơn gặp gỡ để rồi trở thành “đôi bạn chí thân” cũng có rất nhiều điều lý thú. Trong đó có lần gặp đầu tiên cách nay hơn 20 năm. Lúc ấy bộ phim Tây Du Ký của đạo diễn nổi tiếng Dương Khiết đang được trình chiếu ở Việt Nam rất thu hút khán giả; nhưng cảnh Tôn giả A-nan và Ca Diếp đặt vấn đề đòi hối lộ mới chịu trao kinh cho thầy trò Đường Tăng lại gây bức xúc dư luận, nhất là trong giới Phật tử bình dân. Thấy vậy, ông Dũng nẩy ra ý định viết một bài báo giải thích ý nghĩa thâm sâu về hành động trên của hai ông Tôn giả (Học giả Lý Việt Dũng còn là cộng tác viên của báo Giác Ngộ, tuần báo Văn nghệ TPHCM, các tạp chí Tia Sáng, Nghiên Cứu và Phát triển – Huế, Cánh Én – Nha Trang…).

Trước khi viết, ông cẩn thận đến các chùa ở TP.HCM để tham khảo ý kiến của các bậc cao tăng. Đến Thiền viện Vạn Hạnh gặp sư Thích Phước Sơn (lúc đó còn là Thượng tọa). Qua đàm đạo, cả hai đều tâm đầu ý hợp và thống nhất nhận định: A nan và Ca Diếp không có tội mà là có công chỉ ra cho Đường Tăng tư tưởng buông xả rốt ráo (thuật ngữ Thiền là chứng ngộ) vì khi đã tới Tây phương rồi mà còn khư khư ôm cái bình bát vàng.

Bài báo được dư luận đồng tình nhờ sự phân giải cao minh nầy của… “đôi bạn”.

Năm 2006, giới học giả cũng như các nhà nghiên cứu, những người quan tâm tìm hiểu về lịch sử – văn hóa Nam bộ khá bất ngờ trước sự xuất hiện của ấn phẩm Gia Định Thành Thông chí của Trịnh Hoài Đức do Lý Việt Dũng dịch và chú giải, được Tiến sĩ Huỳnh Văn Tới hiệu đính (NXB Tổng hợp Đồng Nai).

Nguyên bản của bộ địa chí về vùng đất Nam bộ xưa do Trịnh Hoài Đức (1765-1825) ghi chép vào đầu thế kỷ XIX hầu như đã thất truyền, những bản dịch sau đó đang được lưu hành do điều kiện hạn chế nên có khá nhiều sai sót. Qua hơn 7 năm vừa tra cứu tài liệu, điền dã thực tế nhiều tỉnh miền Nam, trao đổi, tìm hiểu từ các nhà nghiên cứu… học giả Lý Việt Dũng đã phát hiện ra hơn 200 sai sót ở các bản dịch trước bao gồm 6 nhóm như: dịch nhầm địa danh, nhân vật, tên sản vật địa phương, ngữ nghĩa Hán văn, chép thiếu hoặc sai với nguyên văn; kể cả lổi morasse. Và ông đã biên dịch, đối chiếu rồi kỳ công chú giải một cách hợp lý, sát với thực tế; được đánh giá cao, sách được dùng làm tài liệu tham khảo tin cậy.

Với riêng Đồng Nai (đang là chốn dung cư), học giả Lý Việt Dũng còn có một công trình biên khảo khá công phu được Nhà xuất bản Đồng Nai ấn hành, đó là Nghi và văn cúng chử Hán ở thành phố Biên Hòa.



dnp-ly-viet-dung-mot-hoc-gia-vo-su-tu-ngo-8dnp-ly-viet-dung-mot-hoc-gia-vo-su-tu-ngo-9dnp-ly-viet-dung-mot-hoc-gia-vo-su-tu-ngo-10

dnp-ly-viet-dung-mot-hoc-gia-vo-su-tu-ngo-12

Bìa các tác phẩm học giả Lý Việt Dũng biên soạn, hiệu đính, dịch thuật


Xóa ngộ nhận về Liêu trai chí dị

Năm 2006, học giả Lý Việt Dũng được Nhà xuất bản Phương Đông cho ra mắt công chúng một công trình biên khảo mà ông hết sức tâm đắc. Đó là Nghiên cứu chuyên sâu và 383 câu hỏi tri thức Liêu Trai.

Đối với Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh – một tác phẩm văn học thuộc loại thần kỳ của Trung Quốc ra đời cách nay 200 năm, được dịch ra nhiều ngôn ngữ trên thế giới như: Việt Nam, Anh, Pháp, Đức, Nga, Thổ Nhỉ Kỳ… học giả Lê Việt Dũng có niềm say mê đặc biệt. Ông cho biết, đầu tiên ông đọc Liêu trai qua bản dịch của Tản Đà đã cảm thấy thích thú vô cùng nên phát tâm nghiên cứu sâu về tác phẩm nầy.


Được một người bạn là fan của Bồ Tùng Linh tặng cho bộ sách Tường chú Liêu trai chí dị do Lã Trạm Ân chú giải, đọc xong Lý Việt Dũng càng mê nên đọc trọn bộ Liêu trai chí dị nguyên bản gồm 16 quyển với 431 truyện mà Bồ Tùng Linh đã dành đến thời gian 50 năm để hoàn thành. Đọc rồi dịch. Lý Việt Dũng tâm sự: “Chính Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh ra đời vào đầu nhà Thanh (cuối thế kỷ 17) mới là tác phẩm đầu tiên mà tôi tâm đắc, mãi đến giờ vẩn còn tâm đắc. Tôi đã bỏ thời gian, công sức từ thuở thiếu niên đến bạc đầu để nghiên cứu chuyên sâu và dịch trọn bộ Liêu trai… Tôi cảm thấy rất đau buồn vì một tác phẩm vỉ đại như Liêu trai đã bị người đời hiểu sai, dịch bậy. Bao nhiêu dịch giả ở Việt Nam cũng như trên thế giới đã dịch hỏng hoàn toàn tác phẩm nầy, ngay cả chính người Trung Quốc khi dịch sang Bạch thoại cũng còn rất nhiều va vấp. Tôi đã bỏ công cả đời để đọc hầu hết các bản dịch trong nước và thế giới rồi ra công chú giải, đính chính những chỗ sai nhầm nặng nề không thể chấp nhận được”.

dnp-ly-viet-dung-mot-hoc-gia-vo-su-tu-ngo-5
Nghiên cứu điền dã tượng đầu Phật (Long Thành, tháng 8.2015)


Học giả Lý Việt Dũng còn cho rằng: “Không như nhiều người lầm tưởng, do không nghiên cứu chuyên sâu nên chỉ cho rằng sách toàn nói chuyện hoang đường yêu mị, họ không biết rằng 1/3 số truyện trong Liêu trai chí dị thấm đượm lý nhân duyên, luật nhân quả, hoằng dương sâu đậm Phật lý qua những câu chuyện đời thường”.

Mê Liêu trai chí dị và đã dịch xong trọn bộ sách này nhưng chưa được xuất bản, ông Lý Việt Dũng lại cất công biên soạn quyển Phật lý qua Liêu trai; trong đó có tuyển dịch 50 truyện Liêu trai chí dị thấm đượm giáo lý nhà Phật kèm lời bình của Đại sư Thích Viên Minh.


dnp-ly-viet-dung-mot-hoc-gia-vo-su-tu-ngo-4-600x800
Ông Lý Việt Dũng nghiên đọc bia mộ song thân
Tả quân Lê Văn Duyệt bị vua Minh Mạng ra lệnh đục xóa


Được biết, hơn mười năm trước đây, một học giả Đài Loan có hợp tác với ông Lý Việt Dũng để dịch Đại tạng kinh sang tiếng Hán. Công việc được khoảng 10% thì ông ngã bệnh nặng, không thể tiếp tục công việc. Đến nay, phía Đài Loan vẫn chưa hoàn thành công trình này do thiếu người có đủ năng lực. Riêng bộ Thiền sử Ngũ đăng hội minh gồm 20 quyển đã được học giả Lý Việt Dũng dịch đến quyển 12 thì ngã bệnh đang được giao cho đại đệ tử của ông là Đặng Hửu Trí tiếp tục công trình. “Truyền nhân” Đặng Hữu Trí sinh ra trong một gia đình Công giáo dòng, tốt nghiệp khoa Quản trị kinh doanh của Trường Đại học Kinh tế TPHCM, lại học thêm khoa Đông phương học ở Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn.

Theo học tiếng Hán, đặc biệt là môn cổ văn Phật giáo với thầy Lý Việt Dũng, Đặng Hữu Trí đi sâu vào nghiên cứu các tông phái Phật giáo rồi say mê Thiền và “hoác nhiên… tiểu ngộ” nên chuyên tâm vào công tác dịch thuật. Trí đã dịch Tâm kinh giảng lục và Đại thừa tuyệt đối luận của Thiền sư Nguyệt Khê Tâm Viên (đã xuất bản), Pháp môn tu hành của Thiền tông, Hiển tông ký giảng lục, Kim Cang kinh thích yếu, Viên giác kinh chú sớ.

Học giả Lý Việt Dũng còn được biết đến với tư cách một nhà khảo cứu và đã xác nhận các chữ trên bia mộ thân sinh Tả quân Lê Văn Duyệt đã bị vua Minh Mạng cho đục bỏ. Ông cũng là người tham gia hợp soạn cuốn từ điển Anh Việt với 530.000 tập từ.

“Vô sư tự ngộ”

Sinh năm 1939 ở Bạc Liêu, Lý Việt Dũng vốn là giáo viên tiểu học rồi chuyển ngạch trở thành “giáo sư” trung học, ghi danh học Đại học Văn khoa Sài Gòn, làm giám đốc nhà máy gạch; tự học thông thạo tiếng Anh, Pháp, Hoa… Sau năm 1975, sống với nghề chài lưới rồi trở lại làm công nhân ngay tại nhà máy ông từng làm giám đốc; sau đó làm cho công ty xuất nhập khẩu Cimexcol Minh Hải đóng ở TPHCM.

Khi công ty này giải thể, ông quay trở lại nghề đánh bắt cá. Và rồi với cái vốn Hoa văn thâm hậu cùng những thành tựu trong việc nghiên cứu, dịch thuật kinh điển Phật giáo, ông Lý Việt Dũng đã quay lại nghề dạy học, có thời gian dài ông còn được giao phụ trách lớp Gia giáo chuyên luyện dịch Hán tạng, được các học giả An Chi và Đào Nguyên đánh giá cao cả về kiến thức chuyên môn lẫn phương pháp đào tạo.

dnp-ly-viet-dung-mot-hoc-gia-vo-su-tu-ngo-6
Dự hội thảo góp ý về mấy sai sót trong quyển Tự vị tiếng Việt miền Nam của Vương Hồng Sển

Học giả Lý Việt Dũng cho rằng thành công của ông phần lớn là do tự học. Vốn là người Việt gốc Hoa, lại được cha là cụ Lý Khi – một nhạc sĩ ở Bạc Liêu có ngón đờn kìm vang danh một thời và thuộc lớp đàn anh của nhạc sĩ Cao Văn Lầu (tác giả bản Dạ cổ hoài lang) khuyến khích học chữ Hán từ nhỏ nên việc học chữ Hán của ông Dũng thật dễ dàng. Ông có năng khiếu đặc biệt là chuyên học từ điển. Lúc đầu là học các loại từ điển Hán Việt, sau đó đến các loại từ điển chuyên dụng và chuyên ngành như: Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Phật Quang đại từ điển, Từ điển Hán Việt Thiền tông…

Học giả Lý Việt Dũng còn hóm hỉnh mượn lời Hòa thượng Thích Phước Sơn cho là ông thuộc loại huân tu từ kiếp trước, nên kiếp này… “vô sư tự ngộ”, bẩm sinh đã nắm rõ thiền lý. Nhưng ông lại cho rằng bên cạnh những gì bẩm thụ, ông vẩn luôn tự ý thức, cần cù, nhẫn nại, bỏ ra nhiều công sức và thời gian để nghiên đọc rất nhiều kinh sách Phật học cũng như sách vở liên quan.

Học giả Lý Việt Dũng cũng đã tiết lộ phương pháp nghiên cứu và dịch thuật Thiền học đạt năng suất cao và thành công của ông là: “Trước hết phải đọc thật nhiều tác phẩm để nắm cho được thuật ngữ chuyên môn và phải đạt cho được trình độ kiến giải về Thiền hoặc triệt ngộ tâm nguyên, nhưng không để vướng mắc vào văn ngôn, ngữ cú.

Kinh nghiệm bản thân tôi là muốn dịch đạt được tín, nhã, đạt, phải học chuyên sâu chữ Hán, đọc, nghiên cứu nhiều, đồng thời nên tham gia giảng dạy để thu thập thêm kiến thức; đặc biệt là phải trang bị thêm tiếng Anh, Pháp để tham khảo các tác phẩm loại nầy. Theo tôi, phương pháp nghiên cứu của học giả phương Tây cụ thể và hiệu quả hơn Việt Nam chúng ta. Muốn phát triển lâu dài, bền vững, chúng ta phải học chuyên sâu, tức là muốn nghiên cứu lĩnh vực nào, trước hết phải học chuyên sâu lỉnh vực đó!”.

Bùi Thuận
https://doanhnhanplus.vn/ly-viet-dung-mot-hoc-gia-vo-su-tu-ngo-509372.html



 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2018(Xem: 18123)
Nhiều lời Đức Phật dạy trong kinh điển có thể được nhìn thấy qua nhà thơ Bùi Giáng. Toàn thân Bùi Giáng chính là Khổ Đế hiển lộ qua cái được thấy. Tương tự, với Tập Đế. Nụ cười của Bùi Giáng chính là Đạo Đế hiển lộ an lạc qua cái được thấy. Tương tự, với Diệt Đế. Bùi Giáng đùa giỡn ca ngâm với lời lời ẩn nghĩa chính là diệu chỉ tâm không dính mắc của Kinh Kim Cang, hiển lộ qua cái được thấy và cái được nghe. Bùi Giáng đi đứng nằm ngồi giữa phố như không một nơi để tới chính là diệu chỉ sống với cái Như Thị của Kinh Pháp Hoa, hiển lộ qua cách thõng tay vào chợ. Bùi Giáng viết xuống chữ nghĩa xa lìa có/không, dứt bặt đúng/sai, hễ viết xuống là gửi vào tịch lặng bờ kia chính là diệu chỉ gương tâm rỗng rang của Bát Nhã Tâm Kinh. Đó là hình ảnh nhà thơ Bùi Giáng trong tâm tôi nhiều thập niên qua.
03/09/2018(Xem: 12115)
Cảm Đức Từ Bi (sách pdf) của Cư Sĩ Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
28/08/2018(Xem: 6391)
Trong bài Đôi dòng cảm nghĩ về cuốn Võ Nhân Bình Định của Quách Tấn và Quách Giao do nhà xuất bản Trẻ phát hành vào năm 2001, Giáo sư Mạc Đường, nguyên viện trưởng viện Khoa Học xã hội TP.HCM có cho biết rằng, họ Quách, mặc dù ông tổ vốn dòng Mân Việt nhưng không chịu sống dưới chế độ Mãn Thanh nên đã rời bỏ Trung Quốc di dân sang Việt Nam. Đến thế hệ Quách Tấn và con là Quách Giao đã trên 300 năm. Vì sống tại Tây Sơn đã nhiều thế hệ “ nên họ Quách có biết dược nhiều sự kiện lịch sử ở địa phương. Nhất là thời đại Tây Sơn và phong trào Cần Vương. Gia phả của họ Quách đều có ghi lại các sự kiện lịch sử quan trọng này.
26/08/2018(Xem: 3755)
Những ngày cuối hạ oi bức, không làn gió thoảng. Cây cối trơ ra như những tượng đá trong vườn thần chết. Mọi thứ như dừng đứng để chờ đợi một phép lạ. Tuần trước, rừng ở quận hạt lân cận bị cháy suốt mấy ngày khiến bầu trời mù mịt khói đen, nắng không xuyên qua được, chỉ ửng lên cả một vùng trời màu vàng nghệ lạ thường. Nay thì trời trong không một gợn mây. Bầy quạ đen lại tranh nhau miếng mồi nào đó, kêu quang quác đầu hè. Rồi im. Bầy chim sẻ đi đâu mất dạng gần một tháng hè gay gắt nắng. Bất chợt, có con bướm cánh nâu lạc vào khu vườn nhỏ. Và gió từ đâu rung nhẹ những nhánh ngọc lan đang lác đác khai hoa, thoảng đưa hương ngát hiên nhà. Phép lạ đã đến. Gió đầu thu.
20/08/2018(Xem: 4727)
Đọc “Đường vào luận lý” (NYÀYAPRAVESA) của SANKARASVAMIN (Thương Yết La Chủ), Cầm quyển sách trên tay độ dày chỉ 290 trang khổ A5 được nhà xuất bản Hồng Đức tại Việt Nam in ấn và do Thư Viện Huệ Quang ở Sài Gòn phát hành, lại chính do Giáo Sư Lê Tự Hỷ ký tặng sách giá trị nầy cho chúng tôi vào ngày 14 tháng 7 năm 2018 nầy, nên tôi rất trân quý để cố gắng đọc, tìm hiểu cũng như nhận định về tác phẩm nầy.
15/08/2018(Xem: 7900)
Nếu chúng ta từ phương diện thư tịch nhìn về quá trình du nhập và phát triển Phật giáo tại Việt Nam, cho thấy số lượng kinh sách trước tác hay dịch thuật của người Việtquá ư khiêm tốn,nội dung lại thiên về thiền họcmang đậm nét cách lý giải của người Hoa về Phật học Ấn Độ, như “Khóa Hư Lục”, “Thiền Uyển Tập Anh” (禪苑集英), “Thiền Tông Chỉ Nam”, “Thiền Tông Bản hạnh”…Điều đó minh chứng rằng, Phật giáo Việt Nam chịu ảnh hưởng khá sâu nặng cách lý giải Phật học của người Hoa. Nguyên nhân nào dẫn đến sự ảnh hưởng này, theo tôi ngoài yếu tố chính trị còn có yếu tố Phật giáo Việt Nam không có bộ Đại tạng kinh bằng Việt ngữ mang tính độc lập, để người Việt đọc hiểu, từ đó phải dựa vào sách của người Hoa, dẫn đến hiểu theo cách của người Hoa là điều không thể tránh. Nếu thế thìchúng ta nghĩ như thế nào về quan điểm độc lập của dân tộc?Tôi có cảm giác như chúng ta đang lúng túng thậm chí mâu thuẫngiữa một thực tại của Phật giáo và tư tưởng độc lập của dân tộc.
13/08/2018(Xem: 4397)
Nếu “lá sầu riêng„ chúng ta ví biểu tượng của sự hy sinh, kham nhẫn, nhịn nhục, chịu sầu khổ riêng mình không muốn hệ lụy đến ai, thì Lá Sầu...Chung, một giống lá mới trồng hôm nay phát sinh từ lòng nhỏ nhen, ích kỷ sẽ đem sầu khổ chung cho bao người. Đó là nội dung của vở bi kịch sau đây qua sự diễn xuất của hai mẹ con. Kính mời Quí vị thưởng thức. Đây, bi kịch “Lá Sầu Chung„ bắt đầu.
11/08/2018(Xem: 11978)
Bà hiện còn khỏe, minh mẫn, sống ở Nha Trang. Bà thành hôn với nhà văn B.Đ. Ái Mỹ 1940, cuộc tình sau 47 năm (tức năm phu quân mất 1987), bà sinh hạ 14 người con: 7 trai, 7 gái. Tất cả 14 người con của bà đều say mê âm nhạc, thích hát và hát hay, nhất là người con thứ ba - Qui Hồng. Hơn ½ trong số này cầm bút, làm thơ, viết văn, vẽ, điêu khắc và dịch thuật. Người có trang viết nhiều nhất là người con thứ 10: Nhà văn Vĩnh Hảo, với 13 đầu sách đã phổ biến… Bà là nữ sĩ nổi tiếng không những về thơ ca mà còn cả thanh sắc, thêm vào tính tình hiền diu, đằm thắm nên được văn thi hữu thời bấy giờ quí trọng. Bà là nữ sĩ nổi danh từ thập niên 30 vế cả ba mặt Tài, Sắc và Đức.
09/08/2018(Xem: 8142)
Nghĩ Về Mẹ - Nhà Văn Võ Hồng, Xót người tựa cửa hôm mai, Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ. Sân Lai cách mấy nắng mưa, Có khi gốc tử đã vừa người ôm. Tựa cửa hôm mai là lời của mẹ Vương Tôn Giả. Mẹ bảo Vương: "Nhữ chiêu xuất nhi vãng lai" mày sáng đi mà chiều về, "tắc ngô ỷ môn nhi vọng" thì ta tựa cửa mà trông. "Mộ xuất nhi bất hoàn" chiều đi mà không về, "tắc ngô ỷ lư nhi vọng" thì ta tựa cổng làng mà ngóng. Hai câu mô tả lòng mẹ thương con khi con đã lớn. Trích dẫn nguyên bản để đọc lên ta xúc cảm rằng bà mẹ đó có thật.
09/08/2018(Xem: 6400)
sáng hôm nay, chúng tôi vào lớp đựơc nửa giờ thì đoàn Thanh niên Phật Tử kéo đến đóng cọc chăng dây chiếm nửa sân trường. Tiếp tới, họ chia nhau căng lều đóng trại. Tôi thì thầm hỏi Nhung: --Không nghỉ lễ mà sao họ cắm trại? Nhung che miệng - sợ thầy ngó thấy - nói nhỏ: --Ngày rằm tháng Bảy, lễ Vu Lan. Tôi mừng quá: ngày mai được nghỉ lễ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]