Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

105. Kinh Thiện Tinh

19/05/202010:58(Xem: 9800)
105. Kinh Thiện Tinh

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập III
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]


105. Kinh THIỆN TINH

( Sunakkhatta sutta )

 

Như vậy, tôi nghe :

 

          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả

          Vê-Sa-Li, Ngài đã trú qua

              Ku-Ta-Gá-Rá-Sa-La  (1)

     (Giảng đường Trùng Các), rừng là Đại Lâm (2)

          Lúc ấy nhằm có nhiều Phích-Khú  (3)

          Trước Điều Ngự, tuyên bố chính mình

              Đã chứng trí giác viên minh :

    “ Chúng con biết được đinh ninh ngọn ngành :

          Sanh đã tận, tựu thành Phạm hạnh

          Điều chân chánh mình đã thực hành

              Không còn trở lại (Vô Sanh) ”.

 

       Lúc ấy một vị vốn ngành thế gia

          Lích-Cha-Vi Pút-Ta (4) dòng dõi

          Có tên gọi : Su-Nách-Khách-Ta.

              Được nghe về chuyện kể là

       Nhiều Phích-Khú trước Phật-Đà trí minh

          Tuyên bố mình đã chứng trí giác

          Đã thành đạt Ứng Cúng, Vô Sanh.

              Su-Nách-Khách-Ta thân hành     

       Đến hương thất đấng Cha Lành Thế Tôn

          Đảnh lễ đức Thế Tôn Thiện Thệ

          Rồi ngồi kế bên Phật, thưa ngay :

    ___________________________

 

   (1) : Kutagarasala – Trùng Các giảng đường tại thành Vesali

         (Tỳ-Xá-Ly).           (2) :  Đại Lâm – Mahàvana.

   (3) : Bhikkhu  được phiên âm là Tỳ-Khưu hay Tỷ-Kheo.

   (4) : Licxhaviputtta : người con của dòng họ Licchavi.

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  544

 

        – “ Bạch Thế Tôn ! Con nghe vầy :

       Nhiều Tỷ Kheo ở trước Ngài, nói ra

          Là mình đã chứng qua trí giác

          Đã thành đạt A-La-Hán rồi.

              Không biết các vị này thời

       Tuyên bố chân chánh, hay lời nói đây

          Các vị này vì tăng-thượng-mạn

          Tuyên bố sảng, không đúng chăng là ? ”.

 

        – “ Này ông Su-Nách-Khách-Ta !

       Những Phích-Khú trước mặt Ta nói là

          Đã chứng qua trí giác bậc Thánh

          Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành

              Điều nên làm, đã thực hành

       Không còn trở lại, Vô sanh hiển bày.

          Có ở đây một số Phích-Khú

          Đã chân chánh khi thú nhận là

              Mình đã trí giác chứng qua.

       Nhưng cũng có kẻ gian ngoa, chỉ vì

          Tăng-thượng-mạn, dối khi tuyên bố

          Chứng trí giác. Thật hổ ngươi thay !

 

              Những Tỷ-Kheo chân chánh đây

       Với các vị ấy, đúng ngay như vầy.

          Nhưng ở đây,một số Phích-Khú

          Tăng-thượng-mạn, nên tự nói là

              Trí giác mình đã chứng qua.

       Như Lai suy nghĩ : ‘Nay Ta hãy vì

          Những vị ấy, thuận tùy thuyết pháp’. 

          Nhưng phức tạp khi có số người

              Ngu si, hỏi Ta lôi thôi,

       Su-Nách-Khách-Tá ! Ta thời nghĩ qua :

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  545

 

         ‘Ta hãy vì họ mà thuyết pháp,

          Và không thể làm khác điều này ”.

 

        – “ Bạch đức Thế Tôn ! Như vầy 

       Đã đúng thời giảng pháp hay, thuần từ

          Ngài thuyết như thế nào, chắc hẳn

          Chúng Tỷ Kheo sẽ gắng thọ trì ”.

 

        – “ Su-Nách-Khách-Ta ! Vậy thì

       Hãy khéo tác ý đồng thì khéo nghe ”.

 

    – “ Con xin nghe lời Ngài phân tách ”. 

 

    – “ Này Su-Nách-Khách-Tá ! Ở đây

              Có năm dục-trưởng-dưỡng này

       Sao là năm ? Các sắc đây do là

          Mắt nhận thức vui và vừa ý

          Hấp dẫn, liên hệ chí dục này.

              Các tiếng nhận thức do tai

       Các hương do mũi, xúc này do thân

          Các vị, nhân do lưỡi nhận thức…

          Đáng yêu, thực vừa ý, vui, và

              Hấp dẫn, liên hệ dục tà.

       Này ông Su-Nách-Khách-Ta ! Đó là

          Năm dục-trưởng-dưỡng mà phải rõ.

          Nhưng sự tình này có trải qua 

              Khi một số người tỏ ra

       Thiên nặng vật chất phù hoa cõi đời

          Với những người bản tính thế đó

          Thích hợp họ phải tùy thuộc vào

              Sự phù hợp với điều nào

       Mà họ suy gẫm, mong cầu, nghĩ suy.

          Người đó chỉ thuận tùy giao thiệp

          Với người mà họ thích ưa thôi !

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  546

 

              Nhưng nếu câu chuyện được khơi

       Bất động với họ thì người này đây

          Không lóng tai nghe và cảm thụ,

          Tâm không trú trí giác mọi thời.

              Y không giao thiệp với người

       Mà y không thích thú lời người đây.

 

          Ví như, này Su-Nách-Khách-Tá !

          Có người đã lâu lắm xa quê

              Làng hay thị trấn thuộc về

       Bỗng gặp một kẻ từ quê của mình

          Về văn minh hỏi qua tường tận

          Nơi làng hay thị trấn hiện nay ?

              Tình hình kinh tế nơi này ? 

       Về ăn uống, bệnh tật rày ra sao ?

          Người quen mau tường trình mọi sự

          Theo tuần tự câu hỏi nêu ra.

              Và này Su-Nách-Khách-Ta !

       Thế nào ông nghĩ xuyên qua chuyện vầy ?

          Có phải là người này chăm chú

          Lóng tai nghe, an trú tâm ngay

              Vào trí giác ; và người này

       Sẽ giao thiệp kẻ người này thích không ? ”.

 

    – “ Bạch Thế Tôn ! Đúng như vậy ạ !

 

    – “ Này Su-Nách-Khách-Tá ! Trải qua

              Người ấy cần được hiểu là

       Thiên nặng vật chất phù hoa cõi đời.

 

      *  Mặt khác, việc này thời xảy tới  

          Một số thiên nặng với điều là

              Bất Động, thích hợp trải qua

       Tùy thuộc để hợp điều mà họ đây

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  547

 

          Suy tầm hay suy tư, và họ

          Chỉ giao thiệp người họ thích thôi !

              Nếu nói liên hệ việc đời

       Thuộc thế gian vật chất, thời người đây

          Bất động, không lóng tai nghe kỹ

          Không trú vào thượng trí mọi thời.

              Y không giao thiệp với người

       Mà y không thích thú lời nghe qua.

 

          Này Su-Nách-Khách-Ta ! Giả thử

          Một lá vàng khô tự lìa cành

              Không thể trở lại tươi xanh.

       Cũng vậy, với kẻ bình sinh thuộcvề

          Thiên nặng bề bất động thế đó

          Đã rời bỏ kiết sử, liên quan

              Kiết sử vật chất thế gian,

       Người ấy cần được rõ ràng hiểu thông :    

         ‘Đây là hạng người không liên hệ

          Kiết sử thể vật chất trần duyên

              Thiên nặng về bất động liền.

 

   *  Lại nữa, một số người thiên nặng về

          Vô Sở Hữu. Vấn đề được thấy

          Với người ấy, câu chuyện thích nghi

              Với người ấy, thì phải tùy

       Thế nào để hợp điều chi phải là

          Điều y sưu tầm và suy nghĩ,

          Người ấy chỉ giao thiệp với người

              Mà y thích thú. Nếu lời

       Liên hệ đến Bất động, thời người đây

          Không nghe, không lóng tai chăm chú  

          Không an trú vào trí giác ngay.    

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  548

 

              Y không giao thiệp với ai

       Mà y không thích kẻ này, tránh xa.

          Này Su-Nách-Khách-Ta ! Được ví

          Một hòn đá đã bị vỡ đôi

              Không thể nối liền được rồi !

       Người thiên Vô-sở-hữu thời ví như

          Bị chặt đứt, đoạn trừ mau chóng

          Khỏi kiết sử Bất-động tức thời.

              Người ấy được hiểu là người

       Không liên hệ Bất-động, thôi không hề !

          Thiên nặng về Vô-sở-hữu cả.

 

          Này Su-Nách-Khách-Tá ! Trải qua

          *  Lại có sự tình xảy ra

       Một số người đã tỏ ra níu trì

          Về Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

          Với người tự thiên nặng điều đây

              Câu chuyện thích hợp người này

       Tùy sự phù hợp người này suy tư

          Chuyện nếu từ Vô-sở-hữu xứ

          Người ấy tự không lóng tai nghe

              Trí giác, tâm không trú về

       Người ấy lại cũng không hề xã giao

          Những người nào y không thích cả.

 

          Này Su-Nách-Khách-Tá ! Như so 

              Một người mỹ vị ăn no

       Đã ngán món ấy, dù cho chẳng cần.

          Y có ăn lại món ăn ấy ? ”.

 

    – “ Thưa không. Vì sao vậy ? Vì rằng

              Y đã không thiết món ăn

       Mà y đã ngán, muốn quăng bỏ vầy ”.

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  549

 

    – “ Cũng vậy, này Su-Nách-Khách-Tá !

          Với người đã thiên nặng Xứ là

              Phi-tưởng-phi-phi-tưởng, và

       Vô-sở-hữu-xứ dẹp qua, chẳng cần

          Người ấy cần được hiểu cho rõ :

          Hạng người đó không liên hệ gì

              Kiết sử Vô-sở-hữu ni,

       Chỉ Xứ Phi-tưởng-phi-phi-tưởng này.

          Thiên nặng về Xứ đây hướng tới.

 

      *  Lại nữa, hỡi Su-Nách-Khách-Ta !   

              Sự tình này cũng xảy ra :

       Nhiều người thiên nặng, huớng qua Niết Bàn.

          Chánh Niết-bàn người này thiên nặng

          Câu chuyện hẳn thích hợp người này

              Phải tùy thuộc, phù hợp ngay

       Với điều người ấy vẫn hay suy tầm

          Và suy tư. Thâm tâm người đó

          Chỉ giao thiệp người họ thích thôi !

              Nếu câu chuyện hướng về nơi

       Phi-tưởng-phi-phi-tưởng, thời không nghe

          Không lóng tai, không hề trú lạc

          Vào trí giác, với lời chẳng ưa 

              Như ngọn cây Sa-La vừa

       Bị chặt đứt hẳn chẳng chừa ngọn ra.

 

          Này Su-Nách-Khách-Ta ! Sao thế ?    

          Vì Sa-La không thể sống khi

              Ngọn nó bị chặt đứt đi.

       Hạng người như thế là gì ở đây ?

          Phải hiểu ngay : Người không can dự

          Kiết sử Xứ Phi-tưởng-phi-phi,         

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  550

 

              Thiên nặng Niết Bàn mọi thì. 

       Sự tình khác cũng thuận tùy xảy ra :

          Một số người nghĩ là : “ Tham ái

          Bậc tự tại Sa-môn gọi là

              Mũi tên, thuốc độc xấu xa

       Vô minh não hại người ta vô vàn.

          Với dục, tham, sân… toàn thứ hại

          Nay mũi tên tham ái, cùng là

              Thuốc độc vô minh… được ta

       Đoạn diệt, trừ khử, và ta thiên về

          Chánh Niết Bàn, không hề sinh lại ”.   

 

          Và vị ấy có thể tự hào 

              Vì thiên Niết-bàn trước sau,

       Với mục đích ấy truy cầu ngoài trong

          Những gì không thích hợp hoàn cảnh

          Khuynh hướng Chánh Niết-bàn thanh cao.

              Mắt vị ấy thường truy cầu

       Về sắc không thích hợp nào đó đây.

          Tai vị này có thể diễn biến

          Truy cầu tiếng không thích hợp nào,

              Mũi, lưỡi, thân, ý… truy cầu

       Hương, vị, xúc, pháp… không sao hợp vào.

 

          Khi lục căn truy cầu như vậy

          Khiến tham ái, dục vọng tức thì

              Nhiễu loạn tâm của vị ni,

       Do vậy đưa đến chết đi hay là

          Khổ trải qua gần như chết vậy.

 

          Này Su-Nách-Khách-Tá ! Như là 

              Có một mũi tên bắn ra

       Trúng vào một kẻ, thật là nguy thay !

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  551

 

          Vì tên này tẩm thuốc độc luyện,

          Bạn bè và thân quyến người này

              Mời một Y-sĩ đến ngay

       Vị ấy giải phẩu giỏi, hay vô cùng

          Y-sĩ liền cắt xung quanh miệng

          Vết thương với phương tiện con dao,

              Rồi Y-sĩ dò tìm mau

       Với vật dụng dò tìm vào vết thương.

          Ông tìm phương rút mũi tên độc,

          Trừ khử hết chất độc do tên

              Rồi vị Y-sĩ nói lên :

 

 – “ Hiền-giả ! Đã rút mũi tên ra rồi,

          Thuốc độc cũng đồng thời trừ khử,

          Nay mọi thứ không còn hiểm nguy,

              Nhưng bạn phải ăn những gì

       Thức ăn thích hợp, luôn khi giữ gìn.

          Nếu cố ý, vô tình ăn phải

          Thức ăn ấy không thích hợp vào,

              Vết thương làm mủ đớn đau.

       Lại phải cẩn thận rửa lau thường thường,

          Xức thuốc cho vết thương liền miệng,

          Cẩn thận chuyện săn sóc vết thương,

              Khi ra gió nắng phải nương

       Đừng để dơ nhớp, bụi đường nhiễu nhương

          Khiến cho miệng vết thương nguy hại ”.

 

          Nhưng người ấy lại suy nghĩ là :  

           “ Tên đã rút khỏi thân ta,

       Nọc độc đã khử, nên ta hiện thời

          Thoát khỏi nơi nguy hiểm, biến chứng ”.

 

          Rồi người ấy ăn những thức ăn

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  552

 

              Không thích hợp. Y như rằng !

       Vết thương làm mủ, y hằng đớn đau.

          Do không thường rửa lau, gìn giữ

          Không kiêng cử gió nắng, bụi dơ

              Lại không xức thuốc, phòng hờ

       Nên vết thương có bao giờ lành đâu !

          Nếu nhiễm trùng, lở sâu vết mổ

          Có thể dẫn đến chỗ tử vong.

 

              Su-Nách-Khách-Ta ! Tương đồng

       Cũng như sự kiện ở trong Tăng-đoàn

          Một số vị miên man nghĩ mãi :

        “ Tham ái ấy Đạo Sư nêu lên

               Như là thuốc độc, mũi tên

       Vô minh não hại lên trên con người

          Với dục, tham, đồng thời sân hại.

          Mũi tên ấy ta đã diệt trừ

              Thuốc độc vô minh cũng trừ,

       Ta thiên nặng đến Vô-dư Niết-bàn ”.

 

          Và vị ấy hoàn toàn tùy thích  

          Tự hào với mục đích hiện thì,

              Có thể truy cầu những gì

       Không thích hợp với phạm vi Niết-bàn.

          Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý

          Truy cầu sắc, hương, vị, âm thanh,

              Truy cầu xúc, pháp chẳng lành

       Không thích hợp với tịnh thanh hướng về

          Thời tham dục nhất tề nhiễu loạn

          Tâm vị ấy vô hạn bất kỳ

              Khiến chết hay gần chết đi.

       Su-Nách-Khách-Tá ! Vậy thì vị đây

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  553

 

          Đã chết ngay ở trong Giới luật

          Của bậc Thánh ngay phút giây này.

              Vị ấy bỏ tu tập ngay

       Trở về hoàn tục, sống đầy đau thương.

          Điều này thường khổ như chềt tốt,

          Khi phạm một ô uế tội nào.

 

              Su-Nách-Khách-Ta ! Nói vào

       Một số Phích-Khú thanh cao hành trì

          Không truy cầu những gì không hợp

          Lục trần không thích hợp, không tầm,

              Tham dục không nhiễu loạn tâm,

       Vị ấy không bị dẫn dần đến nơi

          Chết tức thời hay gần như chết.

 

          Với ví dụ giống hệt như trên

              Một người bị bắn bởi tên

       Mũi tên thuốc độc tẩm lên mọi bề

          Được thân quyến, bạn bè tức khắc

          Mời một Y-sĩ thật tài ba

              Giải phẩu lấy mũi tên ra

       Dặn dò cẩn thận như là chuyện trên.

          Người ấy bèn y theo lời dặn

          Giữ vết thương cẩn thận mọi thời,

              Ăn thức ăn thích hợp thôi,

       Xức thuốc, với nắng gió thời tránh ngay,

          Giữ vệ sinh hằng ngày vết mổ,

          Cho nên chỗ vết thương mau lành.

              Người ấy được sống an lành

       Không đi đến chết hay gần chết đây.

 

          Cũng vậy, này Su-Nách-Khách-Tá !

          Sự kiện này được tả xảy ra :

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  554

 

              Một số Tỷ Kheo nghĩ là :

    “ Tham ái được bậc Đại Sa-Môn ngài

          Đã gọi ngay : mũi tên, thuốc độc

          Vô minh nên tàn khốc hại người

              Với dục, tham, sân chẳng rời.

       Mũi tên tham ái đây thời hiện nay

          Được ta đoạn diệt ngay lập tức.

          Lục trần thực không thích hợp nào

              Được lục căn không truy cầu,

       Do tham dục không thể nào hại qua

          Nên người ấy tránh xa cái chết,

          Không khổ gần như chết trải qua.

 

              Và này Su-Nách-Khách-Ta !  

       Như hai ví dụ nói ra như vầy

          Khiến làm sáng tỏ ngay ý nghĩa

          Và ý nghĩa diễn tả như vầy :

 

              Vết thương đồng nghĩa ở đây

       Với sáu xúc xứ trình bày đinh ninh.

          Thuốc độc là vô minh cực hại

          Mũi tên ấy đồng nghĩa Ái này,

              Vật dụng dò tìm ở đây

       Đồng nghĩa với Niệm. Dao này ví như

          Thánh trí tuệ. Còn người Y-sĩ

          Đồng nghĩa bậc Toàn Trí Như Lai   

              A-La-Hán, Chánh Giác ngài.

       Su-Nách-Khách-Tá ! Đúng đây sự tình

          Vị Tỷ Kheo tự mình phòng giữ

          Đối với sáu xúc xứ. Nghĩ mau :

            “ Sanh y là gốc khổ đau”.

       Sau khi vị ấy hiểu sâu, tức thì

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  555

 

          Trở thành vô-sanh-y chơn thiệt,

          Giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y.

              Nếu còn nghĩ đến sanh y

       Không thể như vậy mọi thì xảy ra.

 

          Này Su-Nách-Khách-Ta ! Giả thử

          Có một thứ chén ngọc quý sao !

              Tuyệt đẹp, hương thơm ngạt ngào,

       Thuốc độc đã được tẩm vào chén đây,

          Một người hay tham sống sợ chết,

          Muốn khổ hết, an lạc vui vầy.

              Ông nghĩ ra sao điều này ?

       Người ấy có uống chén đây không nào ?

          Khi biết rằng uống vào sẽ chết

          Hoặc gần chết khi đã uống xong ? ”.

 

        – “ Bạch đức Thiện Thệ ! Thưa không ”. 

 

 – “ Cũng vậy. vị Tỷ Kheo trong chuyện này

          Chắc chắn phòng hộ ngay đối với

          Sáu xúc xứ, luôn khởi ý mau :

           “ Sanh y là gốc khổ đau ”

       Sau khi vị ấy hiểu sâu, tức thì

          Trở thành vô-sanh-y chơn thiệt,

          Giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y.

              Nếu còn nghĩ đến sanh y

       Không thể như vậy mọi thì xảy ra.

 

          Này Su-Nách-Khách-Ta ! Ví dụ

          Con rắn độc tích tụ nọc xà,

              Với người ham sống thiết tha

       Luôn sợ chết, ông nghĩ ra thế nào ?

          Người ấy có đưa vào gần rắn

          Bàn tay hắn hay gót chân sau 

Trung Bộ (Tập 3) Kinh  105 :  SUNAKKHATTA   *  MLH –  556

 

              Cho rắn độc cắn không nào ? ”.

 

 – “ Bạch Phật ! Y chẳng thể nào thực thi 

          Điều ấy, vì biết rằng bị cắn

          Sẽ đi đến chết hẳn, hay là

              Khổ gần như chết xảy ra ? ”.

 

 – “ Cũng vậy,Su-Nách-Khách-Ta ! Vị này 

          Chắc chắn phòng hộ ngay thật kỹ

          Sáu xúc xứ, và nghĩ như sau :

           “ Sanh y là gốc khổ đau ”.

       Sau khi vị ấy hiểu sâu, tức thì

          Trở thành vô-sanh-y chơn thiệt

          Giải thoát nhờ đoạn diệt sanh y.

              Nếu còn nghĩ đến sanh y

       Không thể như vậy mọi thì xảy ra ”. 

 

          Lích-Cha-Vi Pút-Ta tín giả

          Là Su-Nách-Khách-Tá, hân hoan

              Nghe Phật thuyết giảng rõ ràng

       Vui mừng tín thọ lời vàng Thế Tôn ./- 

 

        Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  ( 3 L )

 

*

*  *

 

(  Chấm dứt  Kinh  số 105 :  SUNAKKHTTA  – 

SUNAKKHATTA  Sutta  )

 

 

---------------------

 

HẾT TẬP III

 




***
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2015(Xem: 3341)
Chiều nay từ cơ quan về nhà, Lâm chở theo một cô gái: Cô Thắm. Ngọc, vợ chàng, không mấy ngạc nhiên vì Lâm đã trình bày với nàng từ hôm qua. Thắm 17 tuổi, cán bộ văn nghệ cơ quan Xây Dựng Nông Thôn mà Lâm là Chỉ Huy Trưởng. Ăn cơm xong đâu vào đó, theo kế hoạch, vợ chồng Lâm kéo về nhà ông bà Kính, thân sinh của Ngọc, chỉ cách đó 10 phút đi bộ. Ông bà Kính cũng không mấy ngạc nhiên về sự hiện diện của Thắm tối nay, vì ông bà cũng được Lâm thưa trước về vấn đề của Thắm. Bà Kính mời Thắm ngồi. Rồi với vẻ thân thiện cởi mở cố hữu, bà vui vẻ bảo Thắm: - Thời buổi này trai thiếu gái thừa, khó dễ người ta làm gì thế? Thắm tưng tửng, giương cặp mắt ngây ngô thật thà đáp lại: - Cũng một vừa hưa phửa thôi chớ!
02/01/2015(Xem: 3281)
Hai mươi năm xa quê, cuối cùng tôi cũng đã về thăm lại Huế! Hai từ "về Huế" mới ấm áp làm sao. Huế của tôi không về sao được. Nào là làng xóm bà con, mồ mã nội ngoại nhất là bạn bè, học trò rất thân thương mà tôi cho đó là một phần lẽ sống của mình. Các em đã tổ chức cho tôi một buổi họp mặt, môt khu vườn xinh xắn, cây lá được điểm trang bằng đèn màu ra vẻ một tiệm cà phê trang nhã như tính cách của chủ nhân. Bày biện ngoài sân và vườn là một dãy bàn ghế cũng tương đối lịch sự, đủ chỗ tiếp mấy chục người, thân mật và ấm cúng.
01/01/2015(Xem: 3995)
Người ta thường nói đời nhà giáo " Cho rất nhiều mà nhận chẳng bao nhiêu. " Tôi thì trái lại, tôi cho rằng: " Nhà giáo chúng tôi cho chẳng bao nhiêu mà nhận rất nhiều. " Gần suốt cả cuộc đời, tôi có cho ai bao nhiêu đâu vậy mà đi đến nơi nào, tôi cũng đã được rất nhiều học trò lúc nào cũng dang rộng vòng tay nồng ấm tiếp đón cô giáo cũ của mình.
03/12/2014(Xem: 3930)
Đêm đã khuya, sao tôi còn thao thức mãi! Cứ mỗi lần nhận được thư của những người bạn còn ở lại bên trời quê hương lận-đận là tôi nao cả lòng! Tất cả những thông tin về Huế làm cho tôi xúc động bâng khuâng! Tôi chỉ còn nửa mảnh đời ở đây, còn nửa mảnh đời vẫn gởi lại cho Huế. Buổi chiều với mảnh trời tím cũng gợi nhớ, buổi sáng với nắng cũng xôn xao, cũng không khuây khỏa nỗi rờn rợn Huế trong tim!
25/11/2014(Xem: 4557)
Có một “truyện cổ Khờ-me”, như sau:“- Ngày xửa, ngày xưa có ông vua, một đấng minh quân, cùng với mấy vị quan trọng thần rong thuyền ngoạn du sông nước. Trời nắng như đổ lửa, dòng nước ngược chảy xiết nên những người phu chèo đầm đìa mồ hôi, mặt mũi đỏ au, ráng tận sức lực để chèo đẩy con thuyền đi.
25/11/2014(Xem: 4594)
Tôi không nhớ đã đọc ở đâu câu nói này: Nếu không có gì quý giá để lại cho đời, thì ít nhất cũng đừng để lại một điều gì tệ hại. Khoảng trống đó cũng có thể gọi là một thứ di sản không tệ. Tôi nhớ đến câu nói đó, chỉ vì chiều nay đọc thấy trên Internet một tin nhỏ mà thú vị: Các nhà khoa học Anh quốc vừa phát minh một kiểu lò hỏa táng, được đặt tên Resomator, không khói, không tạo ra bất cứ khí độc nào có hại cho môi trường thiên nhiên và sức khỏe con người.
23/11/2014(Xem: 9895)
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi. Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên. ( Chinh Phụ Ngâm Khúc) Trong cuộc sống có những ân tình, nhưng vì hoàn cảnh, hay vì lý do nào đó không trả được, tôi ghi mãi trong lòng, ấp ủ sâu thẳm tận trái tim như báu vật để rồi một lúc nào đó chợt nhớ lại, trân trọng với lòng tri ân vô bờ bến.
22/11/2014(Xem: 4848)
Mùa thu dường như chưa qua mà gió đông đã về tới. Mặt trời mọc sớm nhưng ánh nắng vẫn không xuyên qua nổi những tầng mây xám trên cao và sương mù nặng trĩu trên những con đường nườm nượp xe cộ của thành phố. Thời tiết bắt đầu lạnh, hơn cả tuần nay. Người không nhà đứng co ro nơi hiên của một ngân hàng ở góc đường, chờ đợi kẻ từ tâm.
20/11/2014(Xem: 11015)
Tôi đã lớn lên cùng với những dòng Bát Nhã Tâm Kinh. Những lời sắc bất dị không đã nghe âm vang như tiếng mõ ban mai, như tiếng tim đập của những ngày vui và của những đêm buồn, như tiếng mưa rơi mái hiên trong những buổi chiều ngồi đọc thơ Nguyễn Du.
20/11/2014(Xem: 14424)
Vị trí địa lí và các sinh hoạt văn hóa kinh tế giữa Trung Quốc (TQ) và Việt Nam (VN) đã để lại nhiều dấu ấn trong ngôn ngữ theo dòng thời gian, nhất là khi Phật giáo (PG) du nhập vào Đông Nam Á và TQ. Phần này chú trọng vào các cách đọc (âm Hán Việt) của chữ 梵 phạn hay phạm trong các tài liệu cổ TQ và các dữ kiện tương ứng trong tiếng Việt. Các tài liệu viết tắt là TVGT (Thuyết Văn Giải Tự - khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận (TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161), VBL (Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum,
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]