Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

69. Kinh Gulisàni

19/05/202010:32(Xem: 9573)
69. Kinh Gulisàni

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



69. Kinh GULISÀNI
( Gulisàni  sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đức Thế Tôn Giác Giả
          Trú Vương Xá – Rá-Chá-Ga-Ha  (1)
              Trúc Lâm – Vê-Lú-Va-Na  (1)
     ( Được dâng cúng bởi Tần-Bà-Sa-La )   
          Ka-Lanh-Đa-Ka-Ni-Va-Pá  (1)
       ( Chỗ vốn đã nuôi sóc thường kỳ ).
 
              Lúc ấy, Gu-Lí-Sa-Ni  (2)
       Là một Phích-Khú (3) tu trì tại nơi
          Vùng rừng núi, tánh thời lỗ mãng
          Hảnh động dạng thô tháo, lỗi lầm,
    Đến gặp Tăng Chúng Trúc Lâm.
 
       Tại đây, Tôn-giả thâm trầm uy nghi
          Xá-Lợi-Phất – nhân vì vị ấy
          Đã khuyên dạy Tăng Chúng nơi đây :
 
        – “ Chư Hiền ! Vị Tỷ Kheo này
       Sống quen rừng núi, nhưng nay trú cùng
          Với Chúng Tăng – phải dùng pháp kính
          Phải tôn trọng, cung kính tỏ bày
    Với đồng-Phạm-hạnh các ngài.
 
       Nếu Tỷ Kheo nọ sống ngay núi rừng
          Đến giữa Tăng, không từng trọng thị,
          Không cung kính các vị đáng tôn
     ___________________________
 
( ) : Xem chú thích ở Kinh số 58 : Vương Tử Vô Úy , trang 92 .
(2) : Tỷ Kheo tên Gulisàni .
(3) : Bhikkhu  – Tỳ-Khưu hay Tỷ Kheo .
Trung Bộ  (Tập 2 )   Kinh 69 :   GULISÀNI            *   MLH –  448
 
             Thời có người sẽ nói dồn :
    “ Tốt lành gì với vị Tôn-giả này !
          Quen sống ở rừng dày núi thẳm
          Sống một mình với lắm tật riêng,
              Làm theo sở thích, chẳng kiêng
       Chẳng biết cung kính, mối giềng tôn ty
          Với các vì là đồng-phạm-hạnh ”. 
 
          Nếu Tỷ Kheo sống lánh núi rừng,
              Đến giữa Tăng để trú cùng,
       Phải biết cung kính, phục tùng Chúng Tăng.
          Tỷ Kheo hằng sống nơi rừng rú
          Nay đến trú giữa Chúng Tăng, thời
              Phải khéo léo về chỗ ngồi.
       Nghĩ rằng : ‘Ta sẽ không ngồi trái ngang
          Để chiếm chỗ các hàng Thượng Tọa,
          Không chiếm cả chỗ niên-thiếu Tăng’.
 
              Sơn Tăng đến trú giữa Tăng  
       Nếu mà không khéo xử phân chỗ ngồi
          Thì sẽ có những lời chỉ trích :
       “ Chỉ làm theo sở thích của mình,
              Không biết ‘như pháp’ thực hành ”.
       Do vậy, vị sống rừng xanh xa vời
          Về chỗ ngồi phải biết khéo xử
Khi đến trú giữa Chúng Tăng đây.
 
              Chư Hiền ! Vị sơn tăng này
       Đến trú giữa Chúng Tăng đầy Luật nghiêm :
      –  Không nên tìm vào làng sớm quá,
       Và trở về khi đã xế trưa.
          –  Không biết gia chủ ăn chưa
       Không nên đến lúc họ vừa mới ăn,
Trung Bộ  (Tập 2 )   Kinh 69 :   GULISÀNI            *   MLH –  449
 
   Hay trước lúc bữa ăn của họ,
          Vì sẽ có chỉ trích không chừng :
             ‘Vị này quen sống núi rừng,
       Thời giờ phí phạm, không ngừng đi rong’. 
 
          Vị Tỷ Kheo sống nơi rừng rú
          Nay đến trú giữa Chúng Tăng, thời :
          –  Không nói tạp nhạp, nhiều lời.
 
   –  Là người thiện-hữu, là người dễ nghe
        ( Người dễ bảo và nghe lời thiện,
          Sống hòa hợp, thuộc diện bạn lành )
 
         –  Cần phải thủ hộ các căn,
 
   –  Tiết độ trong sự uống ăn của mình,
 
      –  Cần giữ gìn, chú tâm cảnh giác.
 
      –  Phải tinh tấn, không nhác lười thây,
 
         –  Chánh niệm tỉnh giác đêm ngày,
 
   –  Phải có Thiền định sâu dày công phu.
 
      –  Phải siêng tu, phải có trí tuệ.
      –  Pháp thực tế A-Phí-Đam-Ma  (1)
          ( Thắng Pháp Vi Diệu cũng là )
       Cùng A-Phi-Ví-Na-Da (2) hai điều,
          Là Thắng Luật - Phải đều thực tập.
     Để nếu gặp ai hỏi, trả lời.
 
          –  Tịch tịnh giải thoát pháp, thời
       Cần phải thực tập. Vượt rời khỏi xa
    Sắc pháp và các vô sắc pháp.
    Nếu ai hỏi sẽ đáp từng phần. 
    _________________________
 
  ( ) : Abhidhamma  – Vi Diệu Pháp hay Thắng Pháp . 
  (2) : Abhivinaya  – Thắng Luật  .
Trung Bộ  (Tập 2 )   Kinh 69 :   GULISÀNI            *   MLH –  450
 
          –  Phải thực tập các pháp cần
       Tịch tịnh giải thoát chánh chân, đó là
          Sanh-Ta-Vi-Mô-Kha (1) thiện pháp,
          Vượt Sắc & Vô-sắc-pháp các phần.
 
          –  Thực tập các pháp thượng nhân.
 
       Chư Hiền ! Phích-Khú cô thân độc hành,
          Sống tu hành núi non, rừng rú
          Đã đến trú giữa Chúng Tăng vầy,
              Khi được hỏi những pháp này
       Nếu không đáp được, có ngay phê bình :
       “ Tỷ Kheo này một mình đã sống 
          Chốn núi rừng, hành động buông lơi,
              Lại nói tạp nhạp, nhiều lời
       Là người ác-hữu, là người khó nghe,
          Cũng không hề các căn thủ hộ,
          Không tiết độ trong sự uống ăn,
              Chú tâm tỉnh giác không hằng,
       Không có tinh tấn, bản thân biếng lười,
          Không chánh niệm, không thời Thiền định,
          Không trí tuệ, tịch tịnh cũng xa.
              Thắng Pháp – A-Phí-Đam-Ma
       Và Thắng Luật, không trải qua thực hành.
          Giải thoát pháp an lành tịch tịnh (1)
          Vượt khỏi chính Sắc-pháp, cùng là
       Các vô-sắc-pháp lánh xa,
       Các thượng-nhân-pháp phải qua thực hành ”.
 
          Nghe Tôn-giả đành rành giảng giải,  
          Vị Tôn-giả Mốc-Gá-La-Na
     _______________________________
 
  (1) : Santavimokha – Pháp tịch tịnh giải thoát .
Trung Bộ  (Tập 2 )   Kinh 69 :   GULISÀNI            *   MLH –  451
 
              Hỏi ngài Sa-Ri-Pút-Ta :
 
 – “ Hiền-giả ! Các pháp vừa qua trình bày
          Cần phải chấp trì ngay, thực hiện
          Chỉ phương tiện cho các Tỷ Kheo
              Sống ở rừng núi đèo heo,
       Hay cho tất cả Tỷ Kheo sống gần
          Các thôn làng hay gần thành thị ? ”.
 
    – “ Này Hiền-giả ! Không chỉ dành riêng
              Các vị ở núi, lâm tuyền
       Cần chấp trì, thực tập chuyên chú đều,
          Mà cho cả Tỷ Kheo các vị
          Gần thôn làng, thành thị hành trì ”.
 
              Duyên do Gu-Lí-Sa-Ni   
       Ngài Xá-Lợi-Phất thuyết vi pháp này ./-
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
 
 
 
*  
*   *
 
 
( Chấm dứt  Kinh số 69  :  GULISÀNI   – GULISÀNI  Sutta )
 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/04/2013(Xem: 4264)
Quán trọ là nơi tạm dung của người xa xứ. Hầu hết chúng ta là những người đang sống lưu vong và các quốc gia định cư, trong ý nghĩa nào đó cũng mang tính chất của một quán trọ bên đường. Tâm cảm nầy không phải duy nhất cho người Việt nam mà hầu hết di dân, nhất là người tị nạn khắp nơi trên thế giới đều chia sẻ trạng thái tâm lý nầy. Enrico Marsias, ca sĩ Pháp gốc Hi Lạp, đã mô tả tâm trạng nầy thật tuyệt vời qua bài hát Adieu Mon Pays:
02/04/2013(Xem: 8826)
Tôi được nghe nhiều người truyền tụng ngợi ca Trung niên thi sĩ từ lâu lắm rồi, dần dần tôi làm quen tìm đọc thơ của bác, lúc còn làm chú tiểu ở chùa Tường Vân-Huế.
01/04/2013(Xem: 11425)
Sư trưởng Như Thanh đã sáng tác, biên soạn và dịch thuật khoảng 20 tác phẩm Phật học.
01/04/2013(Xem: 2572)
Tôi đang đọc một bài thơ thì có tiếng gõ cửa. Người bạn đạo đến thăm như đã hẹn. Chắp tay xá nhau xong, tôi sẵn trớn, đọc luôn hai câu cuối.
01/04/2013(Xem: 19003)
Truyện Kiều (thơ)
29/03/2013(Xem: 3895)
Khi tơi đang dịch “Nhân Kiếp và Tai Kiếp” (Human Life And Problems, do hịa thượng tiến sĩ K. Sri Dhammananda) vào giữa tháng 09/2001 tại Toronto thì bất ngờ được biết thầy Thích Tâm Quang bên Mỹ đã dịch xong với tựa đề là “Các Vấn Đề Của Xã Hội Hơm Nay” (web www.budsas.org)
29/03/2013(Xem: 3566)
Trong một bài viết về tác phẩm nước non Bình Định (viết tắt NNBĐ) của Quách Tấn, cố học giả Nguyễn Hiến Lê có nói rằng, ông vốn rất mê các cửa biển miền Trung.
29/03/2013(Xem: 3787)
Khi Huyền Quang được Pháp Loa chính thức trao truyền y bát, làm tổ thứ 3, kế thừa Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử (1330), năm ấy, Huyền Quang đã 77 tuổi.
29/03/2013(Xem: 3752)
Tôi còn nhớ vào khoảng cuối năm 1973 hay đầu năm 1974 gì đó. Tuần báo văn nghệ Tìm Hiểu tại Sài Gòn có đăng một bài phỏng vấn Bùi Giáng, người phỏng vấn là Phan Quốc Sơn.
29/03/2013(Xem: 10627)
Truyện “Quan Âm Thị Kính” không rõ xuất hiện từ thời nào và do ai sáng tác ra. Thoạt tiên truyện là một khúc hát chèo gồm nhiều đoạn, với ngôn từ rất bình dị và tự nhiên, rõ ràng là một khúc hát của dân quê, của đại chúng. Về sau mới có truyện thơ “Quan Âm Thị Kính” xuất hiện, được viết bằng thể thơ “lục bát”, mang nhiều ý nghĩa thâm thúy của cả đạo Nho lẫn đạo Phật. Người ta phỏng đoán rằng tác giả chắc phải là một người có học thức.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]