Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

68. Kinh Nalakapàna

19/05/202010:31(Xem: 9320)
68. Kinh Nalakapàna

TAM TẠNG THÁNH KINH PHẬT GIÁO

TẠNG KINH (NIKÀYA)
Thi Hóa
TRUNG BỘ KINH

( Majhima  Nikàya )


Tập II
Hòa Thượng THÍCH MINH CHÂU
Dịch sang tiếng Việt từ Tam Tạng Pàli

Chuyển thể Thơ :

Giới Lạc  MAI LẠC HỒNG  tự TUỆ NGHIÊM

 ( Huynh Trưởng Cấp Tấn  - GĐPTVN tại Hoa Kỳ )

Email : [email protected]



68. Kinh NALAKAPÀNA
( Nalakapàna  sutta )
 
Như vậy, tôi nghe :
 
          Một thời, Đức Thế Tôn vô ngại
          An trú tại xứ Kô-Sa-La  (1)
            ( Còn có tên Câu-Tát-La )
       Tại Na-La-Ká-Pa-Na (2) nơi này,
          Trong rừng cây tên Pa-Lá-Sá (2)
          Cùng với Chúng Săng-Gá (3) tịnh, hòa .
 
              Lúc bấy giờ, đã xảy ra
       Nhiều Thiện-nam-tử danh gia, sang giàu,
          Cùng nhiều vị thanh cao vương-tử
          Vì lòng tin Điều Ngự Phật Đà,
              Từ bỏ gia đình, xuất gia,
       Như ngài A-Nậu-Lâu-Đà ôn nhu
        ( Cũng chính là A-Nu-Rút-Thá )
          Kim-Bi-Lá và Nan-Đi-Da ,
              Pha-Gu , Kun-Đá-Thá-Na ,
       Rê-Va-Tá , A-Nan-Đà … kể qua .
    _____________________________
 
( ) : Vương quốc Kosala  (Câu-Tát-La  hay Kiều-Tất-La ) có Kinh
     đô là Savatthi ( Xá Vệ ) dưới sự cai trị của vua Pasanadi – Ba-
    Tư-Nặc .( Kỳ Viên Tinh Xá cũng nằm trong địa phận Thành Xá
    Vệ này) . Tiều quốc Kapilavathtu (Ca-Tỳ-La-Vệ) của Đức Phật
    cũng đặt dưới sự bảo hộ của Vương quốc Kosala .
 
(2) : Địa phương tên Nalakapàna , rừng cây tên Palasa .
(3) : Sangha  phiên âm Tăng-Già , là Chúng Tỷ Kheo đệ tử Phật.
      Bản chất Tăng-Già là thanh tịnh và hòa hợp .
(4) : Bảy vị cùng xuất gia : Anuruddha  (A-Nậu-Lâu-Đà hay A-Na-
      Luật ), Kimbila , Nandiya , Bhagu , Kundadhana , Revata (Ly-
      Bà-Đa ) và Ananda ( A-Nan ).
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  438
 
          Cùng số khác Thiện-gia nam-tử
          Có danh tiếng ; tuần tự xuất gia .
 
              Bấy giờ, Thế Tôn Phật Đà
       Đang  ngồi giữa Chúng Tăng Già vây quanh
          Giữa bãi cỏ, trời xanh gió mát .
          Đức Phật nhân vì các vị này 
            ( Các Thiện-gia nam-tử đây )
       Hỏi Tỷ Kheo Chúng : “ Các thầy Tỷ Kheo !
          Thiện-nam-tử họ theo Ta cả,
          Vì lòng tin Ta, đã xuất gia,
              Sống không gia đình, lìa nhà,
       Này Tỷ Kheo Chúng ! Trải qua như vầy
          Thiện-gia nam-tử này các vị
          Có hoan hỷ trong Phạm-hạnh chăng ? ”.
 
              Nghe Phật hỏi, nhưng Chư Tăng   
       Vẫn ngồi im lặng, không hằng nói chi .
          Lần thứ hai, rồi thì ba bận     
          Các Tỷ Kheo cũng vẫn lặng yên .
              Đức Thế Tôn suy nghĩ liền :
     ‘ Chi bằng Ta hãy hiện tiền hỏi qua
          Chính các vị Thiện-gia nam-tử ’.
 
          Rồi Điều Ngự câu hỏi đặt ra
          Cho nhóm A-Nú-Rút-Tha
    ( Ngài dùng “A-Nậu-Lâu-Đà” gọi chung ) :
 
    – “ Này các ông A-Nu-Rút-Thá !
          Các ông đã xuất gia, toại lòng,
              Có hoan hỷ Phạm-hạnh không ? ”.
 
– “ Rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn Phật Đà ! ”. 
 
    – “ Lành thay ! Những thiện-gia nam-tử !
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  439
 
          Vì lòng tin nên tự xuất gia,
              Sống không gia đình, ly gia
       Hoan hỷ trong Phạm-hạnh và siêng tu .
 
          Các A-Nu-Rút-Tha ! Trong lúc
          Tuổi trẻ đẹp, hạnh phúc, vui luôn,
              Tóc đen nhánh, tuổi thanh xuân,
       Có thể hưởng thụ, sống buông lung đời .
          Nhưng các ông quyết rời, từ bỏ,
          Lìa cửa nhà, giòng họ, gia đình,
              Tự nguyện sống không gia đình .
 
       Không vì mệnh lệnh buộc mình xuất gia,
          Không bị vua sai mà làm thế,
          Không vì kẻ trộm cướp bức thân,
              Không vì sợ hãi , nợ nần,
       Không vì thất nghiệp hay cần nương thân .
          Có phải rằng các ông suy nghĩ :
       ‘ Ta đang bị già, chết, sầu, bi,
              Sanh, khổ, não … những mối nguy
       Áp bức, chi phối mọi thì, mọi nơi .
          Nhưng ta thời luôn mong sẽ đạt,
          Chấm dứt các khổ uẩn vây ta ’.
              Này các A-Nú-Rút-Tha !
       Có phải do vậy, xuất gia tu hành ? ”.
    – “ Thưa vâng, bạch Trọn Lành Thiện Thệ ”.
 
    – “ Và như thế, theo các ông thì
              Các ông cần phải làm gì ?
   *  Ly bất thiện pháp và ly dục liền !
          Nếu không chứng an nhiên hỷ lạc
          Hay một trạng thái khác , tịnh yên,
              Dục tham chiếm, trú tâm liền .
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  440
 
       Rồi sân, trạo cử, thụy miên hôn trầm …
          Xâm chiếm tâm và an trú đấy .
          Hối quá, nghi, giải đãi, bất an …
              Xâm chiếm tâm và trú an .
 
       Khi nào chưa được hoàn toàn trải qua
          Ly bất thiện pháp và ly dục,
          Thời các vị không lúc nào an .
              Khi nào ly dục hoàn toàn
       Ly bất thiện pháp, mọi đàng tịnh thanh
          Thì vị ấy chứng nhanh hỷ lạc
          Hay một trạng thái khác tịnh yên,
              Thời các triền-cái nói trên
       Không chiếm tâm được, không liền trú qua .
 
          Các A-Nú-Rút-Tha ! Ly dục,   
          Bất thiện pháp cùng lúc cũng ly,
              Thì chứng hỷ lạc tức thì
       Hay trạng thái khác phát huy, tịnh hòa .
 
          Các A-Nậu-Lâu-Đà ! Thường nghĩ
          Về Như Lai trong trí thế nào ?
              Như về các lậu-hoặc nào
       Liên hệ phiền não có sau khởi vầy,
          Đáng sợ hãi, đưa ngay lập tức
          Đến quả khổ dị thục này đây,
              Hướng sanh, già, chết tương lai,
       Lậu-hoặc chưa được Như Lai đoạn trừ .
          Nên sau khi suy tư, phân tích
          Ta thọ dụng một pháp , an như .
               Sau khi phân tích, suy tư  
       Nhẫn thọ một pháp, rồi trừ bỏ đi .
          Rồi sau khi suy tư phân tích
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  441
 
          Lại một pháp trầm nịch diệt xong,
              Các ông nghĩ thế phải không ? ”.
 
 – “ Bạch Đại Giác ! Chúng con không nghĩ vầy.
          Mà nghĩ ngay : “ Với Ngài Thiện Thệ
          Các lậu-hoặc liên hệ não phiền
              Sanh khởi hậu hữu , căn nguyên
       Đáng sợ hãi, đưa khổ liền đến nhanh
          Quả dị thục, hướng sanh, già, chết,
          Trong tương lai ; diệt hết điều này .
              Các lậu-hoặc được Như Lai
       Đoạn trừ tất cả, mảy may không còn .
 
          Khi Thế Tôn suy tư phân tích 
          Một pháp tích cực chọn thọ dùng .
              Sau khi nghĩ, phân tích cùng,
       Nhẫn thọ một pháp . Không dùng trừ đi
          Một pháp khác . Nghĩ suy phân tích
          Một pháp thuộc chướng nghịch diệt ngay ”.
 
        – “ Này các ông ! Thật lành thay ! 
       Những điều vừa được nói đây, rõ ràng
          Các lậu-hoặc liên quan phiền não
          Sanh khởi hậu hữu đáng sợ thay !
              Đưa quả khổ dị thục ngay,
       Hướng đến già, chết tương lai như vầy
          Được Như Lai đoạn trừ, trốc rễ
          Ví như thể thân cây Sa-la
              Bị cắt tận gốc rễ, và
       Không thể sanh khởi, trải qua chết dần .  
          Hoặc như phần ngọn cây vừa kể
          Bị chặt đứt, không thể lớn thêm .
              Này các ông ! Đoạn diệt êm
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  442
 
       Lậu-hoặc liên hệ ngày đêm não phiền,
          Được Như Lai diệt liền tận rễ
          Nó không thể sanh khởi tương lai .
              Do vậy, sau khi Như Lai
       Suy tư, phân tích, pháp nay thọ dùng.
          Sau khi dùng phân tich, nghĩ ngợi
          Nhẫn thọ với một pháp ở đây,
              Rồi từ bỏ, đoạn trừ ngay
       Một pháp, khi đã giải bày, suy tư .
          Vậy theo như các ông nghĩ đó          
          Do thấy rõ mục đích thế nào
              Ta giải thích tái sanh vào 
       Của các đệ tử khi sau từ trần ,
          Mà nói rằng : ‘ Vị này sinh lại
          Ở chỗ kia , vị ấy chỗ này ”. 
        – “ Bạch Phật ! Với chúng con đây
       Y pháp, nương tựa bậc Thầy Thế Tôn,
          Hướng Thế Tôn, Ngài là lãnh đạo
          Các Pháp-bảo căn bản dựa Ngài .
              Bạch Thế Tôn ! Tốt lành thay !
       Nếu được Ngài giảng ý này rõ ra ,
          Sau khi nghe Phật Đà giảng giải 
          Các Tỷ Kheo theo vậy thọ trì ”.
        – “ Này các ông ! Phải nhớ ghi :
       Như Lai thuyết giáo không vì lợi riêng,
          Không hề chuyên gạt lừa quần chúng,
          Không sử dụng nịnh hót lấy lòng,
              Mục đích tài lộc cũng không,
       Không vì trọng vọng, chẳng mong lợi quyền .     
          Không phan duyên theo ý nghĩ quấy :
       ‘ Làm như vậy, quần chúng biết ta ’.
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  443
 
              Nên Như Lai giải thích ra
       Tái sinh đệ tử đã qua từ trần,
          Mà nói rằng : ‘ Vị này sinh lại
          Ở chỗ kia , vị ấy chỗ này ”. 
              Có những Thiện-nam-tử đây
       Tín thọ cao thượng do đầy lòng tin
          Với hoan hỷ thật tình cao thượng
          Sau  khi nghe, sẽ hướng tâm qua
              Sự ‘như thật’ – Ta-tha-ta .    
       Này các A-Nú-Rút-Tha ! Như vầy     
          Là hạnh phúc và đầy an lạc,
          Hưởng lâu đời cho các vị này .
 
          *  Các A-Na-Luật ! Ở đây
       Tỷ Kheo nghe nói một thầy Tỷ Kheo
          Đã mệnh chung, tên nêu như thế .
          Đấng Thiện Thệ tuyên bố : “ Vị đây
              An trú Chánh Trí sâu dày ”.
       Khi nghe về Tôn-giả này như sau :
        ‘ Có giới hạnh thanh cao như vậy,
          Có trí tuệ như vậy, rỡ ràng
              Có pháp như vậy, minh quang
       An trú & giải thoát nghiêm trang như vầy,
          Tỷ Kheo này mỗi khi nhớ tới
          Lòng tin tưởng, hạnh giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn,   
       Của vị Tôn-giả, thì hằng chú tâm
          Trên ‘như thật’, và thầm cảm thụ
          Tỷ Kheo sống lạc trú trải qua .  
 
          *  Này các A-Nú-Rút-Tha !
       Vị Tỷ Kheo có nghe qua như vầy :
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  444
 
         ‘Một Tỷ Kheo mới đây đã mất
          Có tên thật được biết rõ ràng .
              Phật nói về vị này rằng :
     “ Diệt kiết sử năm hạ phần đích danh,
          Vị ấy đã hóa sanh, nhập diệt,
          Không có việc trở lại đời này ”.
          *  Lại có Tỷ Kheo ở đây
       Mệnh chung, được đức Như Lai nói là :
        “ Sau khi đã diệt ba kiết sử,
          Sau khi tự làm nhẹ bớt đi
             Cả ba độc : Tham, sân, si,
       Chứng Nhất Lai, phải trải đi một lần
          Sinh trở lại cõi trần, tu tiếp
          Rồi mãn nghiệp, diệt tận khổ đau ”.
          *  Lại nữa, vị Tỷ Kheo nào
       Mệnh chung, Phật dạy với câu nói là :
        “ Sau khi đã diệt ba kiết sử,
          Quả Dư Lưu đã tự chứng vào
           ( Cũng gọi Thất Lai thanh cao )
       Bảy lần vị ấy sinh vào thế gian,
          Không còn nữa con đàng đọa lạc,
          Chắc chắn chứng Chánh Giác sau này ”.
              Khi Chúng Tỷ Kheo ở đây
       Được nghe các Tôn-giả này như sau :
        ‘ Có giới hạnh thanh cao như vậy,
          Có trí tuệ như vậy, rỡ ràng
              Có pháp như vậy, minh quang
       An trú & giải thoát nghiêm trang như vầy,
          Chúng Tỷ Kheo mỗi khi nhớ tới
          Lòng tin tưởng, hạnh giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn,   
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  445
 
       Của các Tôn-giả, thì hằng chú tâm
          Trên ‘như thật’, và thầm cảm thụ
          Chúng Tỷ Kheo lạc trú trải qua .  
 
          *  Này các A-Nậu-Lâu-Đà !
       Về phần Ni Chúng tịnh, hòa – cũng y .
          Khi có Tỷ Kheo Ni nào mất
          Được Đức Phật tuyên bố đặc thù :
             “ Vị ấy đã chứng an như 
       Bốn tầng Thánh quả - từ Tu-Đà-Hoàn,
          Tư-Đà-Hàm, A-Na-Hàm quả,
          A-La-Hán - bậc đã Vô Sanh ”.
 
              Đức Phật tuyên bố đành rành .
       Tỷ Kheo Ni đó phong thanh nghe là :
        ‘ Tôn Ni giới hạnh bà như vậy,
          Có trí tuệ như vậy, rỡ ràng
              Có pháp như vậy, minh quang
       An trú & giải thoát nghiêm trang như vầy,
          Chúng Ni này mỗi khi nhớ tới
          Lòng tin tưởng, hạnh giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn,   
       Của Tôn Ni ấy, thì hằng chú tâm
          Trên ‘như thật’, và thầm cảm thụ
          Chúng Ni ấy lạc trú trải qua .  
 
          *  Này các A-Nú-Rút-Tha !
       Cũng vậy, đối với Nam và Nữ nhân
          Là Cư Sĩ – mãn phần, quá cố
          Phật cũng có tuyên bố lên rằng :
           “ Một số Cư Sĩ tinh cần,
       Chuyên tu, cũng chứng như Tăng, Ni vầy ”.
          Chính điều này, Nữ, Nam Cư Sĩ
Trung Bộ  (Tập 2)  Kinh 68 :  NALAKAPÀNA      *MLH –  446
 
          Nhớ những vị tín, giới chánh chân,
              Bố thí, trí tuệ, đa văn .
       Chú tâm trên ‘như thật’ –  hằng trú an .
          Và như vậy, bốn hàng đệ tử  
          Cũng được dự bậc Thánh uy nghi .
              Này các ông ! Phải nhớ ghi :           
       Như Lai thuyết giáo không vì lợi riêng,
          Không hề chuyên gạt lừa quần chúng,
          Không sử dụng nịnh hót lấy lòng,
              Mục đích tài lộc cũng không,
       Không vì trọng vọng, chẳng mong lợi quyền .     
          Không phan duyên theo ý nghĩ quấy :
       ‘ Làm như vậy, quần chúng biết ta ’.
              Nên Như Lai giải thích ra
       Tái sinh đệ tử đã qua từ trần,
          Mà nói rằng : ‘ Vị này sinh lại
          Ở chỗ kia , vị ấy chỗ này ”. 
              Có những Thiện-nam-tử đây
       Tín thọ cao thượng do đầy lòng tin
          Với hoan hỷ thật tình cao thượng
          Sau  khi nghe, sẽ hướng tâm qua
              Sự ‘như thật’ – Ta-tha-ta .    
 
       Này các A-Nú-Rút-Tha ! Như vầy     
          Là hạnh phúc và đầy an lạc,
          Hưởng lâu đời cho các vị này ”.
              Thế Tôn thuyết giảng như vầy
       Chúng Tăng tín thọ , lời Ngài khâm tuân .
 
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  (3L )
*   *   *
 
(  Chấm dứt  Kinh số 68  :  NALAKAPÀNA  – 
NALAKAPÀNA  Sutta  )
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/04/2017(Xem: 3571)
Dọc suốt hai bên xa lộ, trên những cánh đồng hoang, trên những triền núi đổ xuống thung lũng, và đây đó nơi những khu vườn nhỏ nép bên đường, hoa bướm, cúc dại, cúc vạn thọ, cho đến thủy tiên vàng, và nhiều loài hoa dại khác đã cùng trổ sắc vươn lên, chào đón mùa xuân mới. Từ vệ đường, vươn khỏi những ngọn lá xanh mướt là những cánh hoa vàng, đặc biệt là bồ-công-anh, như hàng triệu mặt trời nhỏ, tủa cánh mạnh mẽ, vàng rực, sáng cả một vùng trời đất (*). Nắng ấm mùa xuân tưởng chừng như tô thêm sắc vàng óng ả cho muôn hoa. Xuân trên đồng hoang, hoa vàng, hoa trắng trải dài bất tận.
01/04/2017(Xem: 4822)
Sinh hoạt của cộng đồng Người Việt ở nước ngoài rất đa dạng nhưng không phải tại đâu cũng có tổ chức nghiên cứu văn hóa và đặc biệt là ấn phẩm nghiên cứu văn hóa người Việt. Nhóm Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai & Cửu Long và tập san nghiên cứu có thể là một ngoại lệ đáng ghi nhận. Chúng tôi thảo luận với Chủ bút, Tiến sĩ Huỳnh Long Vân về nội dung của Tập San Nghiên Cứu Văn Hóa Đồng Nai & Cửu Long, được xuất bản và phát hành liên tục tại Sydney từ năm 2007.
01/04/2017(Xem: 4918)
Giáo sư Tiến sĩ Kiều Tiến Dũng trình bày về những khác biệt và tương đồng giữa Đông và Tây. nhân Buổi Ra Mắt Sách Khoa Học Phương Tây và Triết Lý Phuơng Đông tại Sydney Australia. Giáo sư Tiến sĩ Kiều Tiến Dũng không phải là người xa lạ trong lãnh vực giảng dạy khoa Vật Lý cấp đại học tại Australia. Ông lại còn không phải là người xa lạ trong cộng đồng người Úc gốc Việt, vì từ năm 1996 ông đã cùng một nhóm chuyên viên trẻ thiết lập và điều hành trên căn bản thiện nguyện - chương trình truyền hình cộng đồng Vietnam Television tại Melbourne, thủ phủ Tiểu Bang Victoria, Úc Châu.
28/03/2017(Xem: 3523)
Trời đất ở đây đang vào thu, cỏ cây đẹp đến chết người, nhưng bây giờ là tiết tháng mười, nên mới 5 giờ chiều thì nắng đã muốn tắt. Tôi ngẫu nhiên có mặt trên con phố này vào thời điểm sáng tối giao ban ấy, để lại có dịp thấm thía một điều hết sức bình thường mà chiều nay thì bỗng nhiên rất lạ: Không cái gì ở đây là mới lạ với tôi hết, dù hôm nay là lần đầu tôi tới nơi này.
23/03/2017(Xem: 3040)
Sáng nay, mặt trời chưa ló dạng và những tiếng chim vẫn ríu rít ngoài sân. Như thường lệ tôi ra bàn thờ Mẹ nhìn hình người, xá Mẹ, xá Phật và Ông Bà tổ tiên, rồi vào phòng của Ba trông nôm giấc ngủ và đo máu tiểu đường. Hôm nay Ba ngủ ngon, nhưng vẫn đánh thức người để đo máu. Đường trong máu lại xuống chỉ còn 57mM, tôi vội lo cho Ba ăn uống xong và vào bàn làm việc. Mở điện thư ra, có nhà thơ Nguyễn Hoàng Lãng Du chia sẻ một bài thơ lạ của thi sĩ Ngu Yên, bài thơ Âm Thầm Đổ Rác Trùng Ngày Sinh Nhật có đoạn cuối như sau: ...Sáng nay thứ năm, kéo thùng rác ra đường, đi vào tay không. Sống chỉ cần không khí, những thứ khác, càng ít càng tốt. Ông ấy ăn ít, một mình, làm gì có rác. Kéo thùng không. Chiều nay thứ năm, kéo thùng vào, sau khi đổ hết rác trong óc.
07/03/2017(Xem: 11203)
Lần đầu tiên nghe bản nhạc “Hồ Như” của Hoàng Quốc Bảo, tôi có cảm giác như có một tiếng vọng xa xăm xóay vào hồn mình. Chỉ đọc cái tựa đề không thôi mà đã dấy lên sự mông lung, hư hư thực thực. Những con chữ thênh thoang, âm điệu êm dịu khiến tôi thắc mắc và tìm hiểu thêm về dòng nhạc của ông. Một nhà văn gọi dòng nhạc của ông với ba chữ”Khúc Vô Thanh”. Còn tôi, chỉ dùng một chữ để diễn tả, đó là dòng nhạc “Không”.
07/03/2017(Xem: 10479)
Khi trải qua một biến cố, dù biến cố gây ra bởi thiên nhiên hay con người đều đem đến ít nhiều hỗn độn, tan nát. Và rồi, ta trở về sự lắng đọng để suy gẫm việc đã qua. Tĩnh lặng – bắt đầu cuộc khám phá hố thẳm tư tưởng đầy thâm u và miên viễn. Miền tâm linh trỗi dậy với bao nỗi khát khao.
17/02/2017(Xem: 15599)
Ngôn Ngữ Văn Chương và Thi Ca Thiền Phật Giáo – Tâm Trí Lê Hữu Khải
10/02/2017(Xem: 2748)
Ta xin thắp ngọn đèn lên Đức Phật Chiếu vào lòng sáng cả nét thương yêu Cho thêm vui nguồn sống dưới nắng chiều Giữa cơn gió từ bi lan rộng mãi . Ta đã dứt từ bao năm tranh cải Để cho lòng nhẹ bớt cõi hơn thua Để lắng nghe trở lại tiếng chuông chùa Giữa đêm vắng bao mùa sương tuyết đổ .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]