Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đâu Là Hạnh Phúc?

31/10/201910:10(Xem: 5486)
Đâu Là Hạnh Phúc?

duc phat thuyet phap
Đâu Là Hạnh Phúc?


Vào ngày 4/6/2018,  nhà vẽ kiểu túi xách Kate Spade/ Kate Valentine thành công với tài sản ước lượng 200 triệu Mỹ Kim, bà đã treo cổ tự tử ở trong phòng riêng, để lại một tuyệt mệnh thư cho con gái, trong khi chồng ở một phòng khác. Điều này cho thấy “Thành công và tăm tiếng chưa chắc đã ngăn ngừa được sự buồn nản, chán đời”  (Kate Spade's suicide is proof that money and fame can't deter depression).

            Đúng vậy, càng thành công, càng danh vọng càng lo. Lo vì ngày mai còn giữ được như vậy không? Ngày mai hàng bán ế thì sao? Rồi vài chục triệu đầu tư vào chứng khoán có thể mất tiêu trong vòng vài tiếng đồng hồ …cả trăm thứ lo, dồn dập tới khiến mất ăn, mất ngủ, nản chí rồi đâm chán đời và tự tử chết. Ôi tiền tài và danh vọng! Không có nó thì thèm khát. Có nó rồi lại chán đời. Tiền tài, danh vọng là đóa thơm ngát nhưng coi chừng trong mùi hương của nó có chất độc!

Trong khi đó, mới đây đài truyền hình Mỹ ở California có phỏng vấn một cô gái Mỹ Da Trắng khá xinh đẹp, khoảng 20 tuổi, hỏi lý do tại sao cô lại sống cuộc đời không nhà không cửa, chui rúc ở khu vô gia cư căng lều dài cả cây số ở Anaheim, Nam California như vậy? Cô trả lời rằng cô không muốn bị ràng buộc và lo lắng bởi tiền nhà, tiền bảo hiểm sức khỏe, bảo hiểm xe cộ, cuộc sống không tự do khi phải đi làm…Dĩ nhiên ta bùi ngùi thương cảm cho một cuộc đời như vậy. Thế nhưng cô gái lại cảm thấy hạnh phúc và không mong muốn gì cả khi được hỏi cô nghĩ gì về tương lai. Hai hình ản thật tương phản. Một người trong tay có cả 200 triệu lại chán đời treo cổ chết. Còn một người không một đồng xu dính túi, lang thang không cửa không nhà lại thấy hạnh phúc. Như vậy hạnh phúc ở đâu?

Chúng ta sẽ là một người “ngủ trên mây” nếu chúng ta nói rằng một một gia đình giàu có, hay quyền cao chức trọng, vợ chồng xứng đôi vừa lứa, con cái thành đạt…là cuộc sống ngụp lặn trong đau khổ.

Chúng ta cũng sẽ là một người thiếu hiểu biết nếu chúng ta nói rằng một người từ bỏ cả gia đình, vợ con, quyền cao chức trọng, gia tài bạc tỷ…để theo Phật sống đời dưa muối… là điên khùng, ngu dại.

Như thế hạnh phúc là sự lựa chọn của mỗi người. Nếu chúng ta ở trong cung vàng điện ngọc mà thấy hạnh phúc… thì đó là hạnh phúc.

Còn nếu chúng ta từ bỏ cung vàng điện ngọc để sống đời như một kẻ ăn mày như Đức Phật  mà thấy hạnh phúc…thì đó là hạnh phúc.

Từ những dẫn chứng kể trên chúng ta thấy vật chất không phải là điều kiện duy nhất hay ắt có để có một cuộc sống hạnh phúc. Mà hạnh phúc hay không tùy Tâm mình.

            Đạo Phật là một triết lý Trung Đạo. Phật Giáo không phủ định giá trị của vật chất nhưng cũng không khẳng định giá trị của vật chất. Đối với hàng Phật tử sơ cơ Đức Phật dạy về sự thống ngự của khổ đau (Khổ Đế), nguyên do của khổ đau (Tập Đế), sự diệt khổ (Diệt Đế) và phương pháp diệt khổ (Đạo Đế). Thế nhưng khi giảng dạy cho hàng đại bồ tát, hàng đại sĩ như Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thì Đức Phật lại nói, “Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo”. Chân lý tối thượng của Phật trong Bát Nhã Tâm Kinh là: Khổ đau và hạnh phúc trong cuộc đời này chỉ là một. Tùy theo tâm mình mà nó là khổ đau hay bất hạnh. Lấy nước làm thí dụ: Nước cho ta nguồn sống, tắm gội tươi mát, du ngoạn trên sông hồ biển cả. Nhưng cũng chính nước đó sẽ là thảm họa vì nó có thể gây lụt lội, sóng thần và rất nhiều người chết đuối dưới nước. Chân lý “bất nhị” này cũng được Đức Phật giảng dạy cho các hàng Đại Bồ Tát trong Kinh Viên Giác khi Đức Phật nói rằng, “Chúng sinh (luân hồi, thống khổ) và quốc độ (an vui giải thoát) đều đồng một pháp tánh. Địa ngục, cung trời đều là Tịnh Độ”.

Từ  chân lý Phật “không hai” hay “bất nhị” này:

-Chúng ta chúc mừng những người quyền cao chức trọng mà sống trong  hạnh phúc.

-Chúng ta chúc mừng những ông tỷ phú, triệu phú ngồi trên đống vàng đống bạc mà thấy hạnh phúc.

-Chúng ta chúc mừng những cô lấy được những ông chồng giàu sang, phú quý mà thấy hạnh phúc.

-Chúng ta chúc mừng các cậu lấy được các tài tử điện ảnh, ca sĩ, người mẫu, hoa hậu, á hậu…đẹp như tiên nga giáng thế…mà thấy hạnh phúc.

-Chúng ta chúc mừng tất cả những ai cố gắng vươn lên bằng trí tuệ hay bằng mồ hôi nước mắt để đạt được danh tiếng, tiền bạc và thấy đó là mục tiêu tối hậu đẹp nhất của cuộc đời.

-Chúng ta chúc mừng cho những ai đang hưởng lạc thú tuyệt vời với rượu chè, cờ bạc, xác thịt, cao lương mỹ vị, kể cả xì-ke ma túy…mà thấy hạnh phúc.


Thế nhưng chúng ta cũng thán phục và ngưỡng mộ những ai:

-Đã dám bỏ gia tài bạc tỷ để xuất gia sống đời dưa muối và thấy đây mới là hạnh phúc tuyệt vời.

-Những người dám từ bỏ, vợ đẹp con khôn, gia đình êm ấm để tìm một cuộc sống của kẻ ăn xin trong tăng đoàn để mưu cầu hạnh phúc cho chính mình và tìm cách hóa độ chúng sinh, coi cả chúng sinh trong thế gian này như gia đình thân yêu.

-Chúng ta thương cảm và ngưỡng mộ ni cô là những cô gái đã cắt bỏ mái tóc xinh đẹp của mình, sống đời không son phấn, không mỹ phẩm, không xâm trổ để vẽ lại lông mày lông mi, không mỹ viện để sửa sang sắc đẹp, thân hình hầu hấp dẫn phái nam và rất hãnh diện vì vẻ đẹp của mình. Ngày nay “hồng nhan” không còn “đa truân” nữa. Mà sắc đẹp là vũ khí lợi hại để thăng tiến và vinh hoa trong cuộc đời. Những ni cô/ni sư này tìm thấy cái gì đây? Phải chăng chỉ là cuộc sống nội tâm bình an, thanh tịnh và hạnh phúc?

-Sau hết, chúng ta ngưỡng mộ và cảm thông cho những ai sống cảnh đời nghèo khó mà không đua chen, ghen ghét với đời, tâm tính thảo ngay, nghèo khó mà lương thiện. Những người này đã theo triết lý “An bần lạc đạo” thật đáng quý.

 Song những gì tôi nói trên đây chỉ là cố gắng rất vụng về để diễn giải chân lý Tối Thượng Thừa của Phật. Chân lý Tối Thượng Thừa này cũng chính là trí tuệ Bát Nhã và cũng là Viên Giác Thanh Tịnh.

Thế nhưng dù chúng ta có nói như thế nào đi nữa thì thế giới này vẫn cứ đầy rẫy khổ đau. Kẻ hưởng hạnh phúc chẳng bao nhiêu mà người rên xiết vì nỗi khồ phải kể hàng tỷ, hàng tỷ. Sẽ có một sự tranh cãi tới muôn ngàn năm nữa là: Hạnh phúc là tạo ra của cải vật chất và ban tặng của cải vật chất ấy cho mọi người. Hay hạnh phúc là “tri túc thiểu dụng”, giảm bớt những ham muốn của con người? Ngày nay một số rất đông đang đi theo con đường thứ nhất và một số rất ít đi theo con đường thứ hai.

 

Việc treo ấn từ quan, tìm nơi thâm sơn cùng cốc để xa lánh đời, ngao du sơn thủy, ngâm thơ vịnh nguyệt của bao danh sĩ, tể quan đời Đường …không phải không có cái lý của họ. Nhân loại tiến từ thời ăn lông ở lỗ tới du lịch Hỏa Tinh và Mặt Trăng nhưng vẫn chưa tìm ra câu trả lời, “Đâu là hạnh phúc? Và sống thế nào là hạnh phúc?”

Chúng ta không cực đoan để khích lệ một cuộc sống “yếm thế” như các danh sĩ đời Đường. Thế nhưng muốn có cuộc sống hạnh phúc mà không treo cổ hay bắn vào đầu tự sát…chúng ta phải thấy vạn vật này vốn Vô Thường- có đó rồi mất đó: Cam kết rồi bội phản, hứa rồi bội hứa, yêu nhau kết hôn rồi biến thành oan gia trái chủ, bạn biến thành thù, sắc đẹp mĩ miều hấp dẫn ngày hôm nay, ba mươi năm sau biến thành da mồi, tóc bạc, lời yêu ngày hôm nay vài năm nữa có thể biến thành lời đay nghiến.

Do đó khi chúng ta có danh vọng, tiền bạc, tình yêu thì phải hiểu rằng nó cũng như “gió thoảng mây bay”, có đó, mất đó, được đó mất đó…cho nên phải chuẩn bị cho ngày trắng tay hoặc quyền lực mất hết, hoặc người yêu phản bội. Sống như thế là sống theo đạo, tức ung dung tự tại, tức trong khổ đau mà ta có hạnh phúc.

Cuối cùng xin mọi người hãy nhớ “Hạnh phúc và khổ đau chỉ là một”.


Thiện Quả Đào Văn Bình

(California ngày 30/10/2019)



 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24595)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9475)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 11158)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3626)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5386)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3261)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10783)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3743)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15199)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3512)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]