Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ba Thế Hệ Phật tử có mặt cho nhau - chia sẻ tâm tình

22/10/201906:54(Xem: 4060)
Ba Thế Hệ Phật tử có mặt cho nhau - chia sẻ tâm tình

BA THẾ HỆ PHẬT TỬ
CÓ MẶT CHO NHAU - CHIA SẺ TÂM TÌNH

 

 

tran kiem doan (1)

Hình ảnh lưu niệm Hội sách Có Mặt Cho Nhau lần thứ 2 tại San Jose

 

 

  


    Hôm nay, thứ Bảy 19-10-2019, tại Thư Viện Tully thành phố San Jose, California, nhóm Phật tử trẻ do Huynh trưởng Tâm Thường Định Bạch Xuân Phẻ đến từ Sacramento, phối hợp cùng một số Huynh trưởng, Đoàn sinh Gia Đình Phật Tử Việt Nam trong vùng Bắc Cali tổ chức một “Hội Chợ Sách” (Book Fair). Đây là một sinh hoạt tương đối hiếm hoi trong sinh hoạt Văn hoá Phật giáo Việt Nam ở Hải Ngoại với ba thế hệ chung một con đường: Thế hệ Đàn Anh – Đàn Chị (Lão niên), thế hệ Bắc Cầu (Trung niên), thế hệ Đàn Em (Thanh thiếu niên).

Kể từ khi đạo Phật Việt Nam cùng với làn sóng người Việt di dân tỵ nạn ra nước ngoài sau năm 1975, các sinh hoạt Phật sự như xây chùa, dựng tượng, lễ hội, văn nghệ, tiệc gây quỹ... bừng lên và phát triển ngày một rầm rộ trong các cộng đồng người Việt nước ngoài nhưng những sinh hoạt mang tính văn hoá tôn giáo thì ngày càng vắng bóng. Nguyên nhân thì có nhiều mặt, nhưng trực tiếp thì vẫn là do giá trị thực dụng ngắn hạn và lợi nhuận kinh tế làm chủ.

Hội Sách Phật Học “Có Mặt Cho Nhau” lần thứ hai nầy giới thiệu trực tiếp cũng như gián tiếp tác phẩm và tác giả Phật giáo Việt Nam thời cận đại và hiện đại trong vòng 50 qua.

Những tác giả thuộc thế hệ đàn anh như Thích Nhất Hạnh, Thích Thanh Từ, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, Thích Mãn Giác, Nghiêm Xuân Hồng, Phạm Công Thiện… Những tác giả viết về Phật giáo thuộc thế hệ “Bắt cầu” cỡ trung niên – lên lão như Thích Như Điển, Thích Tự Lực, Thích Nguyên Tạng, Thích Thiện Long, Đào Văn Bình, Vĩnh Hảo, Trần Trung Đạo, Trần Việt Long, Huỳnh Kim Quang, Nguyên giác Phan Tấn Hải, Nguyễn Minh Tiến, Nguyễn Hoàng Lãng Du. Ngô Viết Trọng, Trần Kiêm Đoàn…  và các tác giả thuộc thế hệ trẻ như Bạch Xuân Khỏe, Nguyễn Hồng Dũng, Phan Mẫn…

 


tran kiem doan (3)
Quan khách và ban thuyết trình trao đổi ý kiến


Đa số các nhà xuất bản chuyên đề hay có in ấn các tác phẩm Phật học cũng được giới thiệu ra mắt sách như các nhà xuất bản Lá Bối, Vạn Hạnh, Quảng Đức, Lotus Media,Inc, Hương Tích Phật Việt, Việt Ananda Foundation…

 

Mặc dầu hình thức sách báo giấy đã bị sách báo mạng online lấn chiếm đến 50, 60% nhưng văn hóa đọc vẫn còn là phương tiện tri thức và tiêu khiển chuyển tải những thông tin văn chương, xã hội đến khoa học, nghệ thuật của toàn thế giới. Theo thăm dò của Worldatlas và Văn Hóa Á Châu (Asian Culture Foundation -ACF) về Văn Hóa Đọc (Reading Culture) thì những quốc gia chiếm hàng đầu về thời gian đọc sách làm cho người ta ngạc nhiên. Trung bình số giờ một người dân đọc sách báo mỗi tuần là: Ấn Độ (10 giờ 42 phút), Thái Lan (9 giờ 24 phút), Trung Quốc (8:00 giờ); trong khi Pháp (6:54),   Mỹ (4:42), Nhật (4:06), Hàn Quốc (3:06) và Việt Nam (1.2)…

 

tran diem doanTác giả Trần Kiêm Đoàn


Bên cạnh sinh hoạt giới thiệu tác phẩm và tác giả, buổi sinh hoạt "Có Mặt Cho Nhau 2" cũng tạo cơ hội sinh hoạt chung, để chia sẻ và “truyền lửa cho nhau” thông qua hình thức tâm tình của tác giả và thảo luận một số đề tài văn học nghệ thuật, những thao thức và kinh nghiệm hoằng pháp Phật giáo.

 

Nội dung buổi sinh hoạt sách “Book fair” chuyển dần từ thoáng ưu tư “Sách vở ích gì cho buổi ấy. Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già…” của kẻ sĩ từ thời Nguyễn Khuyến (1835-1909) trên quê hương đến hôm nay trên đất khách tại các nước Âu Mỹ, vai trò phát huy văn hóa, phục vụ xã hội và tiêu khiển cho đời của sách báo.

 

Sự quan hệ giữa việc đọc sách báo tiếng Việt và hiện trạng tổ chức, Gia Đình Phật Tử có một sự tương tác qua lại và ai cũng thấy được điều đó. Ngày xưa, tuổi trẻ Phật tử lớn lên và đượm nhuần tình Đạo trên quê hương qua những tác phẩm văn chương trong vắt của các huynh trưởng như Ánh Đạo Vàng, Thử Hoà Điệu Sống, Mùa Gặt Ác… của anh Võ Đình Cường; Phật Pháp căn bản của quý thầy Thích Chân Trí, Thích Thiện Hoa… Nhưng càng ngày sách báo Phật giáo càng vượt cao quá tầm tay với của tuổi trẻ. Và 50 năm qua, nhất là tại các nước Âu Mỹ thì sách báo và chữ nghĩa tiếng Việt đã thành “Ngoại Ngữ” đối với thế hệ sinh ra và lớn lên tại các nước ngoài. Chín mươi phần trăm đoàn sinh Gia Đình Phật Tử Việt Nam sinh hoạt với nhau bằng tiếng nước ngoài. Sách báo, thuyết pháp, băng giảng, phim ảnh… về đạo Phật hầu hết nhắm vào đối tượng phụ huynh và ít còn quan tâm tới con em. Như tuần nay, kẻ đang viết những dòng này dẫn hai cháu Ái Linh và Tấn Lực đi sinh hoạt tại GĐPT – KQ ở địa phương. Khi hỏi các cháu là có thuộc bài tụng “Đệ tử kính lạy, đức Phật Thích Ca…” không? Thì hai cháu đều thuộc. Nhưng khi hỏi nghĩa tiếng Việt thì các cháu đều không trả lời được và nói là “Chẳng hiểu gì cả!” Hai cháu cũng cho biết là hát các bài hát nhưng chẳng hiểu nghĩa là gì, mặc dầu mỗi buổi sáng sinh hoạt vào thứ Bảy hàng tuần các cháu đều phải học 2 giờ tiếng Việt. Tấn Lực là đoàn sinh Thiếu Nam và Ái Linh là Đội trưởng đội Thiếu nữ. Hai cháu Linh, Lực đều đã sinh hoạt GĐPT 7 năm rưỡi. Chiều nay hỏi các bạn GĐPT của Linh, Lực thì cũng nghe trả lời là “Chẳng hiểu gì cả” như thế!

 

tran kiem doan (4)

Sách của hơn 20 tác giả thuộc cả 3 thế hệ được trưng bày và bán giá tượng trưng

 

Lỗi tại ai?

 

Thưa chư quý nhân! Đã đến lúc chúng ta cần chấm dứt thói quen tiêu cực là chỉ tay vào nhau mà đổ lỗi cho người vì không ai có lỗi cả. Từ các bậc Tôn Đức đến hàng phụ huynh và Phật tử ai cũng tha thiết muốn cho các mầm non GĐPT và Phật tử tuổi trẻ đều hiểu Đạo và sống Đạo bình thường. Nhưng nguyên nhân và hệ quả ở đây nằm ở Người thì ít mà nằm ở chỗ Phương Pháp Giáo Dục và phương tiện truyền đạt là chủ yếu.

 

Thế hệ đàn anh – mà nhất là những nhân vật viết lách và thuyết giảng cao vời lý nhà Phật – hầu như quên bẵng các em, các con, cháu quanh mình nên viết toàn những chuyện cao xa vời vợi; thuyết pháp những điều thâm uyên, trong khi tuổi trẻ đang cần những Ánh Đạo Vàng, những Bông Hồng Cào Áo… Hiện tượng áo thụng vái nhau và nhân danh “Phật sự đa đoan” để mãi nghĩ đến cây cành đại thụ, cảnh giới mười phương mà quên mất những chồi non đanh nhú dưới cánh tay mình đang làm cho tuổi trẻ xa dần môi trường Phật đạo!

 

Khi có quý Sư Cô từ miền Nam California nêu lên câu hỏi làm sao tìm ra giải pháp cho vấn đề là các đoàn sinh GĐPT ngày một thưa dần vì các con, cháu không muốn đến chùa. Trong lúc các vị diễn giả và hội thảo viên còn hăng say trao đổi trong vòng hội luận thì có một vị “phát biểu ngoài luồng” từ dãy ghế sau cùng: “Cả trăm, cả ngàn cuốn sách tiếng Việt hay ho bày trên bàn, trên giá, trên kệ mà có cuốn nào tui mua được tặng cho cháu tui đọc đâu nào. Buồn quá hà!”

 

Cuộc hội luận còn đi xa hơn khi vấn đề được nêu lên là tại sao chùa to tượng lớn mọc lên nhiều đến thế nhưng không có những mô thức nhà giữ trẻ kiểu “Vườn Trẻ Kiều Đàm” hay trường học kiểu “Tư Thục Bồ Đề” của Phật giáo miền Nam Việt Nam trước 1975 để đưa mầm non hướng về đạo Phật?

 

Có chăng một cuộc Hội Luận và Hội Sách lần tới đặt trọng tâm vào tuổi trẻ hướng Phật.

Đã đến lúc người Phật tử Việt Nam, nhất là tại Hoa Kỳ, cần xem lại lịch sử người Tàu và Phật giáo của họ trên đất Mỹ gần 200 năm trước, khi người Tàu ồ ạt vào Mỹ làm thuê trong những cơn sốt tìm vàng (Gold Rush) vào những năm1800 - 1850. Họ mang Phật giáo Trung Hoa theo và con số chùa chiền cùng tăng đoàn, giáo hội tăng lên theo đời sống kinh tế và dân số sinh sản nhân lên nhanh chóng. Vì không có sự đầu tư cho tuổi trẻ Phật tử gần như chúng ta bây giờ nên khi thế hệ đàn anh đàn chị di dân đầu tiên khuất bóng, thế hệ sinh ra và lớn lên ở Mỹ không còn quan tâm hỗ trợ việc chùa chiền nên vô số chùa viện phải bán đi và những hội Phật giáo giải tán vì vừa thiếu kinh tế hỗ trợ, vừa vắng bóng tín đồ.  

 

Phật giáo Tích Lan, Tây Tạng, Nhật Bản, Trung Hoa ở Mỹ đã chuyển hướng. Thay vì xây dựng chùa viện quá nhiều về số lượng, họ tập trung về chất lượng. Tây Tạng, Trung Hoa xây dựng những ngôi chùa đồ sộ với kinh phí hằng chục triệu đô la, thu hút ồ ạt khách hành hương bốn phương cũng như nội địa.

 

Nói về tình hình Phật giáo Việt Nam hiện nay, từ tầng lớp Phật tử sơ cơ cho đến bậc tôn túc, hàng giáo phẩm… đều thấy rõ sự thoái trào nghiêm trọng đang diễn ra trước mắt: Trong nước thì bị toàn trị - công cụ hóa; ngoài nước thì phân tranh cùng cực, hoàn toàn vắng bóng lãnh đạo. Nhà cháy, lửa bốc cao thì ai cũng thấy. Nhưng chúng ta đang cần phương tiện cứu hóa thích ứng và phương pháp sử dụng phương tiện ấy đúng đắn và hữu hiệu. Lửa cháy! Nếu cứ chỉ tay nhau, đổ lỗi cho nhau, cãi nhau tranh thắng hay la làng la xóm thì có ích gì?!

 

Cuộc Hội Sách “Có Mặt Cho Nhau 2” mới chỉ là một biểu tượng “mềm” của tinh thần thống nhất văn hóa Phật Giáo trên phương diện  nhân văn. Văn hóa Phật giáo là một tập đại thành của của văn hóa đọc, văn hóa ứng xử và văn hóa tu hành.

 

Cám ơn “Có Mặt Cho Nhau 2”. Mong “Có Mặt Cho Nhau 3” sẽ bàn về văn hóa ứng xử để cùng nhau cố gắng lấp cạn dần và thu hẹp lại những hầm hố chia rẽ là vấn đề trước mắt của chúng ta hôm nay.   

          

 

                                                             San JoseSacramento 19-10-19

                                                                      Trần Kiêm Đoàn

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/04/2021(Xem: 10656)
Đã hơn 45 năm kể từ 1975, nhắc lại chuyện vượt biên quả là xưa như trái đất, xưa quá rồi diễm, nhiều người chẳng muốn nghe, đôi khi còn trách, chuyện qua rồi hãy cho vào dĩ vãng nhắc lại làm gì cho thêm buồn, “quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, hãy nghĩ và sống với hiện tại”. Thế nhưng đâu ai hiểu cho rằng, hiện tại của tôi bây giờ chính là phải viết bài cho ngày 30/4 để đăng báo, mà 30/4 vấn đề tuy cũ kỹ nhưng muôn thuở vẫn luôn có giá trị vì đó là lịch sử và chuyện vượt biên cũng đóng góp trong phần lịch sử đó. Luẩn quẩn là như thế. Và biết đâu, giữa khi mọi người đã quên thì tôi nhắc lại cho mọi người nhớ, và biết đâu giúp các thế hệ sinh sau đẻ muộn hiểu chút ít về lịch sử nước nhà trong giai đoạn đau thương của đất nước, thống nhất lãnh thổ nhưng không thống nhất lòng người đã để lại hận thù, chia cách không biết khi nào mới hàn gắn được và là nguyên nhân tại sao cha mẹ ông bà chúng lại lưu lạc xứ người và ra đi làm sao. Cây có cội, nước có nguồn, là con người ai cũng muốn biết c
01/04/2021(Xem: 9678)
Bài chúc Tết của NS Hoài Linh gây xôn xao MXH: Tự làm thơ hơn 7000 chữ, nhắc đủ 63 tỉnh thành với kiến thức sử địa quá uyên thâm! Trong dịp đầu năm mới, đông đảo các nghệ sĩ trong showbiz Việt đã gửi những lời chúc bình an, sức khoẻ đến với người hâm mộ. Thế nhưng ấn tượng và được netizen chia sẻ nhiều nhất chính là bài thơ chúc Tết được đầu tư và vô cùng sáng tạo của NS Hoài Linh. Ngoài tài làm thơ, NS Hoài Linh còn chứng minh có kiến thức lịch sử và địa lý uyên thâm khi chúc Tết theo đặc trưng từng tỉnh thành ở Việt Nam. Từ những thành phố lớn, đến vùng núi xa xôi, loạt danh lam thắng cảnh, lịch sử thành lập hay đặc nét riêng vùng miền đều được NS Hoài Linh đưa vào bài thơ mang tên Chúc Xuân một cách tài tình. Ngay lập tức, màn chúc Tết có tâm nhất Vbiz của NS Hoài Linh được người hâm mộ "thả tim" và chia sẻ rầm rộ trên MXH. Sau hơn 1 giờ đăng tải, bài thơ chúc Tết hơn 7000 chữ và gần 500 câu của NS Hoài Linh đã nhận được 86 nghìn lượt yêu thích, hàng chục nghìn bình lu
22/03/2021(Xem: 6663)
Được Nhạc sĩ Minh Huy gửi tặng bản nhạc Tạ Tình với lời bài thơ và lời bản nhạc có khác nhau một ít. Lời nhạc tình hơn, nhưng lời bài thơ bảy chữ hay một cách tuyệt vời. Đọc lời bài thơ, người viết thật xúc động, nhưng khi lắng nghe tiếng hát như tự tình trang trải của Ca sĩ Chi Huệ thì tâm hồn người viết lại chìm vào khung trời ngày cũ của “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” trước năm 1975 tại Sài Gòn.
16/02/2021(Xem: 4709)
Kịch hài: Đưa Chồng Tây Về Quê Ăn Tết. Trần Thị Nhật Hưng Một màn. Diễn viên: Cô con gái Việt, cậu rể Tây và mẹ cô gái. Khung cảnh: Phòng khách nhà người mẹ tại Việt Nam *** (Vợ chồng cô con gái kéo va ly bước ra sân khấu.Người mẹ cũng vừa bước ra đối diện nhau). Mẹ (tíu tít): Sa luy...sa luy...(Salü...salü: Chào...chào...) Con rể Tây: Gút tơn tát. Vi kết ét tia. Ít phờ rôi mít tia khên nơn su le rờ nơn (Guten Tag. Wie geht es Dir? Ich freue mich Dir kennenzulernen: Chào mẹ. Mẹ có khỏe không? Rất hân hạnh được quen biết mẹ) Mẹ (trố mắt ngạc nhiên, nhìn con gái): Nó nói gì dzậy? Con gái: Sao má gọi ảnh là...nó, không lịch sự tí nào. Mẹ: Ảnh...nói gì dzậy? Con gái: Chồng con chứ đâu phải chồng má mà má gọi bằng...ảnh.
15/02/2021(Xem: 9413)
Trong vườn hoa thì có nhiều hoa và có muôn màu muôn sắc khác nhau. Vườn hoa lúc nào cũng đượm mùi thanh nhã, thì vườn thơ cũng không khác gì vườn hoa. Tuy nhiên nói về thơ hay định nghĩa về thơ thì rất khó ; do đó, chúng ta nhìn về thơ thì cũng tựa như ta nhìn vị họa sĩ qua cây cọ hay là nghe tiếng đàn qua vị nhạc sĩ đang hòa tấu. Những thập niên trước đây, khi ra hải ngoại, mỗi lần đi hướng dẫn những khóa tu tập, sau giờ giải lao, có những vị Phật tử vui tính xin giúp vui giải lao bằng những lời ca tiếng nhạc hay âm điệu ngâm nga những câu thơ của chư Tôn đức sáng tác, hoặc tự thân họ làm ra để giúp bầu không khí tu tập thêm phần sinh động. . . .
03/02/2021(Xem: 19129)
Vừa qua nhóm ảnh Nhất Chi Mai thuộc tu viện Phước Hòa (Đồng Nai), được sự hướng dẫn của Thượng toạ Viện chủ đã đến Buôn Mê Thuột để quay những thước phim đầu tiên về nhạc sĩ Hằng Vang. Cùng với cố nhạc sĩ Lê Cao Phan, Bửu Bác... được xem như lớp tiền phong của dòng tân nhạc Phật giáo. Nhạc sĩ Hằng Vang tên thật là Nguyễn Đình Vang, sinh năm 1933 tại Huế. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông có hàng trăm ca khúc về đề tài này, nổi bật nhất là ca khúc Ánh Đạo vàng (1958) đã thấm sâu vào lòng Phật tử suốt thời gian dài từ khi ra đời.
01/02/2021(Xem: 6142)
Đối với những dân tộc sống trong nền văn minh lúa nước tại Đông Nam Á, nhất là đất nước và con người Việt Nam, hình ảnh con trâu, thường hay được nói đến, không phải “con trâu là đầu cơ nghiệp” mà đối với người nông dân là con vật gần gũi thân thiết, nên trong ca dao trâu xuất hiện trong bức tranh lao động của gia đình “trên đồng cạn, dưới đồng sâu, chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”, trâu cũng trở thành bạn tâm tình của người nông dân: “trâu ơi ! ta bảo trâu này…” Người nông dân đã đồng cảm với trâu, qua việc cần mẫn lao động hằng ngày, không có lúc nào hưởng được sự thảnh thơi mà phải luôn vất vả nhọc nhằn. Hình ảnh con trâu kéo cày trên ruộng đồng với lúa, mạ xanh tươi, hay đứng nằm gặm nhai cỏ trên bãi cỏ xanh, cùng giầm mình trong vũng ao hồ sình lầy là hình ảnh quen thuộc, gợi lên nhiều cảm xúc thị vị thanh bình tạo cảm hứng cho biết bao thi nhân và họa sĩ.
01/02/2021(Xem: 6986)
Chữ “chùa” thường dễ khiến người ta liên tưởng đến những… chữ khác như kinh-kệ-chuông-mõ-sư-sãi…Xa hơn, có thể gợi nhớ đến chữ… thơ (vì, tu sĩ và thi sĩ vốn là bằng hữu, trong truyền t
01/02/2021(Xem: 8321)
Vào năm 1990, một nhà sư trẻ đến thị xã Lagi – Bình Thuận, dừng bước bên con suối Đó vắng vẻ, cảnh quan đơn sơ, mộc mạc, cách xa trung tâm Lagi. Con suối có cái tên hơi lạ, tên nguyên sơ là suối Đá do chảy qua nhiều tảng đá to, sau này khi người Quảng đến định cư, đọc chệch thành “suối Đó”. Vị sư trẻ dựng một thảo am bên cạnh con suối, cao hứng đặt tên thảo am là chùa Đây, tạo thành một cái tên hay hay và lạ mà du khách đến một lần không thể nào quên “suối Đó – chùa Đây”. Sau này, thảo am nhỏ được trùng tu dần thành một ngôi chùa trang nghiêm và tĩnh lặng với cái tên mang lại cho người ta cảm giác an nhiên tự tại khi nhắc đến như hôm nay – chùa Thanh Trang Lan Nhã.
01/02/2021(Xem: 9392)
Ngôi chùa nhỏ với không gian yên tĩnh nằm bên dòng suối Đó giáp ranh giữa xã Tân Phước và phường Tân An, thị xã La Gi có cái tên rất thanh vắng, tịch mịch “Thanh trang lan nhã” . Chùa do một vị Đại đức tuổi trung niên làm trụ trì, nhà sư Thích Tấn Tuệ. Sư Tấn Tuệ tên thật là Đinh Văn Thành (SN 1960), quê ở làng Duy Trinh, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Ông quy y từ lúc còn nhỏ được đào tạo học hành chu đáo, đi lại nhiều nơi nên kiến thức sâu rộng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]