Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lăng Già Tâm Trầm Mặc Trăng Ngàn

26/02/201920:22(Xem: 3901)
Lăng Già Tâm Trầm Mặc Trăng Ngàn

 

 

 tam nhien

 

Lăng Già Tâm, Tâm Nhiên cùng uống trà trong liêu vắng chùa Phi Lai, Biên Hòa, đêm tháng 2. 2019

 

 

 

  

 LĂNG GIÀ TÂM
TRẦM MẶC TRĂNG NGÀN

 

 

Thơ là tiếng hát ngàn năm, thâm thiết, miên man trong tâm hồn nhân thế, còn mãi đồng vọng, âm vang cao vút tận trời mây lẫn trong sương gió, nắng mưa giữa mùa trăng ngời xanh biếc huyền mộng. Trăng là hơi thở sơ nguyên của vũ trụ, hòa quyện thiết tha, nuôi dưỡng lòng người muôn thuở, là nguồn cảm hứng muôn nơi cho biết bao thiền sư, thi nhân, nghệ sỹ đi về trên cung bậc sáng tạo, khơi mở dòng đời :

 

Trời mênh mông đất mênh mông

Ta ngồi ngoảnh lại chiều đông qua rồi

Xuân về khoe sắc nơi nơi

Nghe trong cổ lục tàng khơi trăng vàng

 

Xuân là Tâm xuân, đất trời mới mẻ, tinh khôi trong lòng mình. Trăng vàng chiếu ra từ những trang cổ lục, cảo thơm, là hình ảnh ánh trăng tuệ giác siêu việt của nhân loại đã kết tinh từ thiên vạn cổ đến nay. Đó là vầng trăng Đức Phật, trăng Long Thọ, trăng Bồ Đề Đạt Ma, trăng Huệ Năng, trăng Lâm Tế, trăng Tuệ Trung Thượng Sỹ, trăng Không Lộ, trăng Huyền Giác… vẫn sáng ngời ngời, soi bước cho biết bao con người vượt qua bóng đêm dài sinh tử…Phải chăng, đó cũng là “Vàng trăng như thị thiên thu dặm ngàn” mà nhà thơ Lăng Già Tâm cảm nhận, khi chiêm ngưỡng vầng trăng Tâm xuân giữa canh trường khuya vắng :

 

Trăng vô biên trăng hiện tiền

Nước trong trăng hiện ưu phiền lãng du

Nghiêng tay nhẹ vén mây mù

Vàng trăng như thị thiên thu dặm ngàn

 

Dặm ngàn thiên thu trên từng bước như thị về, bàng bạc ánh trăng thi ca lãng đãng, trông thật thanh thản, an nhiên, muôn chiều phiêu hốt. Còn gì hân hoan hơn, khi bất ngờ thấy ra nguồn cội, bản lai diện mục của mình, dưới ánh vàng trăng tỏa bừng quang đãng : 

 

Nghe trong tự tánh âm vang

Cô luân nguyệt tỏa ánh vàng lung linh

Trăng soi mặt mũi chơn hình

Ngàn thu trăng chở vô thinh cội nguồn

 

Tự tánh thanh tịnh vốn sẵn hiện hữu tự bao giờ, luôn luôn có mặt sờ sờ ngay trước mắt đó. Thấy là thấy lập tức, diệu dụng ngay giữa thực tại hiện tiền (kiến tánh) còn không thấy thì cứ quờ quạng, lần mò trong xó xỉnh tối tăm, lẩn quẩn chung quanh cái ngã chấp thâm căn cố đế của mình (vô minh)mà thôi.

 

Từ khi “Nghe trong tự tánh âm vang” nhà thơ Lăng Già Tâm trầm nhiên thõng tay vào phố chợ Biên Hòa, vào ra ngôi chùa cũ, trà đạo cùng tao nhân, mặc khách, tùy duyên Chuyển Hóa* cõi người ta. Ra Phú Yên, về chốn miền thôn dã Hòa Thịnh, thinh lặng ngắm trăng rằm mát rượi, thoảng ngát hương đồng cỏ nội, tịch chiếu quanh vườn cổ tự Phi Lai. Lên núi rừng cao nguyên Đăk Lăk dạo chơi với hoang vu, thác đổ, sương mù. Rồi xuống biển Quy Nhơn, thả hồn thơ ngút ngàn bay theo mây trắng :

 

Chùa thiêng ngời im lặng

Chuông khuya vang tiếng không

Trăng xưa vờn biển mộng

Ta về trong mênh mông

 

Biển mộng vờn trăng xưa, long lanh lấp lánh màu vạn đại trước mông mênh đại hải, thấp thoáng bóng ta về, là hình ảnh “cô thân vạn lý du” của Lăng Già Tâm, một nhà sư tự tại, một nhà thơ an nhiên, đang cùng thiên địa Giao Cảm** trong một niềm trăng hằng cửu, chơn thường, bát ngát suối nguồn thương :

 

Trăng chơn thường

Trời mờ sương

Đời còn vương

Vạn tình thương

 

Trăng lung linh

Mắt lung linh

Nhập trang kinh

Vang bình minh

 

Tinh sương, sớm mai hồng lộng nắng vàng óng ánh, xanh biếc cỏ hoa trôi quanh gành đá, tuôn trào rào rạt xuống nguồn suối thương yêu, chảy tràn lan lai láng, bồi hồi. Suối nguồn yêu thương chan chứa giữa đại bi tâm, cuồn cuộn, róc rách reo ca theo dòng nước trong đục dung thông :

 

Rồi một sớm mai hồng

Đất trời bỗng sáng trong

Dòng suối ven bờ cỏ

Niềm vui rộn trong lòng

 

Thong dong là niềm vui mừng rỗng rang bừng dậy, để nụ cười bất tuyệt trổ mãi ngàn hoa lá trên đường về cố quận, nơi vườn Tâm ấm áp, chạm hồn trăng Chân Như ở đây và bây giờ, ngay trong từng hơi thở lạc an :

 

Sóng xao bờ cát

Trăng tỏ lối về

Vườn tâm sáng rạng đường quê

Trời Chân Như ấy bây giờ là đây

 

Vườn Lòng xưađã quy hồi, đã về đã tới thảnh thơi. Thi nhân trút sach hết bụi sầu vạn cổ, buông xuống chập chùng, nặng trĩu bao nỗi khổ, niềm đau, sau nghìn dặm lữ làm phong trần khách, lang thang từ vô lượng kiếp, chìm nổi, thăng trầm, chết đi sống lại giữa cuồng phong, sấm sét, ba đào :

 

Phong trần một kiếp lao đao

Nửa vành trăng khuyết biết bao nhiêu tình

Hỏi cây cây mãi lặng thinh

Hỏi mây mây cứ lênh đênh cuối trời

Đá mòn nhưng dạ chẳng rời

Tào Khê nước chảy sáng ngời Chân kinh

Chiều nay dừng bước phiêu linh

Bên con dốc đá tự tình rong rêu

 

Phiêu linh dừng gót bên dòng suối Tào Khê, bước lên thuyền Bát nhã, lắng nghe Huệ Năng thuyết Chân kinh: “Nếu thấy hết thảy pháp mà tâm không ô nhiễm cũng không vướng mắc, ấy gọi là Vô niệm. Hoạt dụng hết thảy chỗ mà chẳng mắc vướng chỗ nào, chỉ cần thanh tịnh bản tâm, để cho sáu thức ra vào sáu căn, đối với sáu trần không nhiễm, không dính. Đến đi tự do, ứng dụng vô ngại, tức là Bát nhã tam muội, tự tại giải thoát, gọi là hạnh Vô niệm”. Mỉm cười, thi nhân nhận biết, thẩm thấu sâu xa và thực hành cái tâm không dính măc, kẹt vướng, một cách nhanh chóng :

 

Không vương không lụy ngoài trong

Vượt sinh tử mộng thoát vòng nhiêu khê

Qua rồi bể khổ sông mê

Thuyền neo bến giác đề huề gió trăng

 

Trăng gió vẫn đề huề trên đường thơ Lăng Già Tâm, thi nhân vẫn cất bước thung dung, thõng tay vào chốn bụi hồng :

 

Ta bà nặng gánh có không

Con thuyền Bát nhã thong dong lối về

Người đi rạng nét chân quê

Lời kinh vô tự đề huề gió trăng

Mai này trong cõi cô tung

Lắng nghe tiếng hát từ vùng Nguyên xuân

Có không nào để phân trần

Đến đi rồi cũng một lần ai ơi !

Trăng khuya chếch bóng mộng vời

Con đường sinh tử như lời ca dao

Trăm năm tiếng hát câu chào

Ngàn năm còn lại lời nào cho ta ?

 

Trăm năm là một kiếp người trong cõi ta bà, với đủ thứ mặn nồng, chua chát, đủ thứ ngọt bùi, cay đắng, lặng buốt tâm can, lòng dạ não nùng. Rồi ngàn năm vời vợi trong cõi vô cùng, vô tận kia, có còn gì nữa không, hỡi trời cao, biển rộng ? Nhà thơ tự hỏi rồi tự đáp, khi ngồi quán chiếu, xuyên suốt tam thế mộng, khắp mười phương, tám hướng, bốn bề :

 

Tâm nhiên rộn bước đường quê

Tâm Không là chính nẻo về trong ta

Tâm bình ấy bản trường ca

Tâm hòa nhẹ quyện thiết tha ru lời

Ai ơi ! Nhớ lấy nụ cười

Để thiên thu mãi sáng ngời Chân kinh

 

Chân kinh vô tự vốn không chữ mà đại thi hào Nguyễn Du đã đọc được nên phát biểu: “Khắp cõi là Không tánh thì đâu có tướng. Tâm này vốn thường định chẳng lìa thiền”. Thiên thu nụ cười chỉ có thể bừng nở rực rỡ, từ trên nền tảng tuyệt trần Chân Như tự tánh hay Pháp thân thường trụ mà thôi. Thấy như thế, nên nhà thơ Lăng Già Tâm nhập diệu vào bao la, cảnh giới bát ngát vô lượng thọ, vô lượng quang :

 

Dang tay đón ánh mặt trời

Nghe trùng dương gọi nụ cười thinh không

Nghe đồng vọng giữa mênh mông

Tiếng Chân Như hiện muôn trùng Pháp thân

 

Thật vậy,trời đất rộng lớn là do tâm ta lớn rộng, Thiền sư Suzuki đã nói như thế. Chữ tâm là chỉ cho tâm thức con người. Tâm thức quả thật bất khả tư nghì. Muốn nói về tâm, hiểu chữ tâm cho rốt ráo, đầy đủ ý nghĩa, thì không khác gì mình phải đọc lại toàn bộ tam tạng kinh điển, từ Nguyên thủy đến Đại thừa. Ở đây, chỉ cần mấy câu thơ, thi nhân đã miêu tả cái tâm, cái lòng thênh thang như mây trắng :

 

Kinh vàng tỏa sáng màu trăng

Xuân vàng kết nụ vĩnh hằng trong ta

Sáng nay lòng bỗng bao la

Ý xuân hòa quyện ý ta muôn trùng

 

Thế là, suốt từ đầu đến cuối, cõi thơ Lăng Già Tâm vẫn trầm nhiên đi giữa ngàn trăng xanh biếc. Trăng phiêu bồng trên tuyệt đỉnh Tâm cao rờn tuyết trắng. Trăng lồng lộng dưới biển Lòng sóng vỗ âm vang. Trăng bảng lảng, bàng bạc trên Đường Trở Về*** quê quán cũ. Trăng ru đưa trên cành trúc biếc, lũy tre xanh, thoảng nhẹ hương cau quanh mái chùa làng thơm rơm rạ, trổ rộ vàng ngát hương bông lúa : 

 

Chùa tôi ngự ở giữa làng

Lũy tre ấm áp trăng vàng lung linh

Ai về ghé mái chùa xinh

Tắm trăng giữa tháng thắm tình quê xưa

 

Chùa tôi cõng nắng gánh mưa

Nhường cơm sẻ áo cho vừa lòng nhau

Chùa tôi nhẹ thoảng hương cau

Nhẹ điều thương ghét niệm câu Di Đà

 

Chuông khuya lay động trăng tà

Con chim cánh trắng la đà cõi tâm

Ai về ngọt lịm pháp âm

Ta về tự tánh thậm thâm suối nguồn

 

Muôn trùng giữa cuộc lữ đó đây, du sỹ này đã mấy lần ghé chùa Phi Lai ở Biên Hòa hay ra tận Phú Yên, về Hòa Thịnh viếng thăm Phi Lai cổ tự, như trở về cố quận tâm linh của mình vậy. Ngồi bên cỏ nội hoa ngàn, rót chén trà trên sân thượng, sương đêm lấp lánh ánh trăng sơ huyền thanh bạch, xanh trong. Thong thả, lắng nghe Lăng Già Tâm đọc những vần thơ đạo vị, cũng đủ cho du sỹ vô cùng phúc hạnh giữa bầu không khí mát lành, ở một vùng sâu heo hút cuối nẻo làng quê. Thế rồi, mấy hôm sau, trước khi lên đường, không quên để lại bài thơ : Phú Yên Miền Thôn Dã, kính tặng thi sỹ Lăng Già Tâm, đồng thời cũng là Hòa thượng Thích Thiện Đạo, bậc tôn túc trong chốn Thiền môn. Một vị thầy có tâm hồn phóng khoáng văn nghệ, rất bao dung và nhập thế :

 

Về Phú Yên qua mấy làng thôn xóm

Những cánh đồng sông nước lượn bờ tre

Rồi dừng lại cuối nhịp cầu Bến Củi

Hòa Thịnh đây rộn rã buổi quay về

 

Thơ mộng quá ! Phi Lai ngôi chùa cũ

Đứng cô liêu xanh lặng ngát hương đồng

Lồng lộng gió Tâm Kinh reo tịch mịch

Trăng Lăng Già tỏa rợp ánh mênh mông

 

Nghe chuyển hóa cả trời mây thấy được

Đường trở về cố quận giữa lòng sâu

Chiều phơi phới trổ hoa vườn tâm nội

Lối an nhiên rơi sạch hết bụi sầu

 

Ngồi lại đó cho thơ vào giao cảm

Tận đáy hồn đồng vọng khúc hoan ca

Là như thế viên dung cùng vạn hữu

Cười nhẹ thênh trên nhịp bước chan hòa

 

 

Tâm Nhiên

 

 

* Chuyển Hóa. Tản văn Thích Thiện Đạo. Văn Hóa Sài Gòn xuất bản. Sài Gòn 2009

 

** Giao Cảm. Thơ Lăng Già Tâm. Hồng Đức xuất bản. Sài Gòn 2016

 

*** Đường Trở Về. Tản văn Thích Thiện Đạo. Hồng Đức xuất bản. Sài Gòn 2016

 

Thơ Lăng Già Tâm, trích trong tập thơ Giao Cảm. Hồng Đức xuất bản. Sài Gòn 2016

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/01/2021(Xem: 9472)
Thiền sư, thi sỹ, nhạc sỹ, họa sỹ, cuồng sỹ, du sỹ, lang thang sỹ, văn nghệ sỹ tự thuở nào đi về thấp thoáng, nhấp nhô trong sương mờ vạn cổ. Từ buổi mới khai thiên lập địa lúc ban sơ, nguyên thủy đến bây giờ, họ đã ra đi và đi mãi trên con đường mây trắng, con đường sáng tạo vừa lao đao, khổ lụy vừa hùng tráng, thênh thang, vượt qua mộng thực đôi bờ sinh tử, bằng một bước nhảy trọng đại, xuất thần nhập thánh đáo thiên tiên. Huyền cảm tự do, họ thuận nhiên về trên cuộc lữ phong trần giữa một chiều diệu hóa hay một đêm trăng sao ảo huyền cùng tao ngộ bên “thềm cô phong tuyệt đỉnh hội mây ngàn” và hòa âm cung bậc với toàn thể cuộc đời. Đó là thể điệu chịu chơi Cưỡi Sóng Phiêu Bồng mà nhà thơ Thái Huyền đã hý lộng hát ca Khúc Lý Lả:
21/12/2020(Xem: 3500)
Ai cũng tin rằng tương lai sẽ như vầy, như vầy, đúng như hôm qua và hôm nay đã trù liệu, hoạch định và tiến hành; bởi vì cái nhân gieo xuống với sự trợ duyên của các yếu tố phụ thuộc chung quanh, một cách khoa học và kinh nghiệm, cùng với thời gian vừa đủ để một tiến trình được khai mở, phát triển, chắc hẳn có nhiều phần mang lại kết quả tương xứng, hoặc bội phần, hoặc bội bội phần. Tuy vậy, kinh nghiệm, với những kết quả thực tế của một số sự việc, công trình, cũng cho thấy rằng, không phải lúc nào quả phải theo nhân. Bài học vỡ lòng của nhân-quả dạy chúng ta rằng các yếu tố ngoại tại có khi cũng rất quan trọng để dẫn đến kết quả như ý hay bất xứng ý. Tất nhiên khi nông gia cấy lúa xuống ruộng, đã theo kinh nghiệm lâu năm của cha-ông và nghề nghiệp: biết chọn giống tốt, biết lúc nào gieo mạ, cấy mạ, đưa nước vào ruộng, xả nước khỏi ruộng, xịt thuốc trừ sâu, v.v… Nhưng cũng nông vụ nầy, năm ngoái trúng mùa, năm nay bão giông lũ lụt lại thêm các đập thủy điện xả nước, lúa sẽ bị
10/12/2020(Xem: 5900)
Dạo này đang mùa bầu cử Tổng Thống tại xứ Cờ Hoa, có nhiều tuồng diễn rất ư là ngoạn mục, lấy mất của tôi rất nhiều thời gian. Tôi không còn thì giờ để à ơi mưa nắng với một số các bạn xưa. Muốn nói chuyện cũng phải cân nhắc, lựa lời dò la xem đối phương thuộc về bên nào, có cùng chung một chiến tuyến với mình không? Nhỡ cùng một lũ cuồng hết có mà vỡ nợ! Chẳng những thế tôi còn phải xem sắc mặt của từng ông Chủ Bút của từng tờ báo, giấy cũng như điện tử mà lựa bài để gửi. Gửi sai, chẳng những bài bị vất vào sọt rác mà tình văn nghệ cũng sứt mẻ dài lâu. Tại sao lại ra cớ sự như vậy? Trong lịch sử bầu bán chưa bao giờ có hiện tượng kỳ lạ đến như thế. Đây không phải là trận chiến giữa hai đối thủ, giữa hai đảng phái cùng yêu nước, mà là hai phe từ lúc con người mới khai thiên lập địa đến nay, đã có sẵn trong bầu máu nóng những hạt giống của tham lam, sân hận, si tình đủ kiểu. Đã ẩn hiện trong từng một con người với hai mặt tốt và xấu, chánh và tà, như ngày với đêm, như thiên thần
04/12/2020(Xem: 12821)
Lớn lao thay Bài Ca Chứng Đạo! Ngài Huyền Giác đã nói lên được những gì ngài thật tu thật chứng trong bài ca này. Nói là bài ca là vì mỗi lời mỗi chữ đều là Trí Tuệ Bát Nhã xuất phát từ Chân Tâm của ngài, nên thông suốt vô ngại và an vui tự tại. Vui trong cảnh giải thoát, vui trong cảnh Niết Bàn, hân hoan mà thốt lên những lời này, không biết gọi nó là gì, nên tạm gọi nó là Bài Ca Chứng Đạo vậy! Ngài Huyền Giác đã bài trừ tất cả sự chấp có, không, cũng có cũng không, không có không không (tứ cú), để nêu ra cái Bản Thể Tuyệt Đối Chân Tâm. Người giác ngộ được Bản Thể Chân Tâm này là người “tuyệt học, vô vi, an nhàn vô sự”. Xưa nay nó vốn không một vật mà lại thường đầy đủ muôn pháp không thiếu sót. Khi chưa giác ngộ thì thấy biết bằng vọng thức nên mới có muôn ngàn sai biệt. Khi giác ngộ được Bản Tâm thì thấy biết bằng trí tuệ Bát Nhã nên tất cả là Bất Nhị, Như Thị, và Không.
02/12/2020(Xem: 9821)
Làm thinh không phải mình sai Làm thinh là để tương lai cuộc đời Làm thinh không phải dại khờ Làm thinh là để lu mờ thị phi Làm thinh không phải khinh khi Làm thinh là để biết đi biết về Làm thinh không phải u mê Làm thinh là để nghĩ về đường tu Làm thinh không phải gật gù Làm thinh là để Văn Thù hiện ra Làm thinh không phải thứ tha Làm thinh là để biết ta làm gì Làm thinh không phải nhu mì Làm thinh là để mỗi khi thực hành Làm thinh không phải tranh giành Làm thinh là để trung thành hạnh tu
02/12/2020(Xem: 11036)
¨ THƯ TÒA SOẠN, trang 2 ¨ TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3 ¨ LŨ LỤT MIỀN TRUNG VIỆT NAM (thơ ĐNT Tín Nghĩa), trang 8 ¨ BIỆN TRUNG BIÊN LUẬN TỤNG THÍCH, t.t. (HT. Thích Thắng Hoan), trang 9 ¨ QUÊ HƯƠNG MÙA BÃO LŨ (thơ Mặc Phương Tử), trang 11 ¨ QUẢ BÁO VỀ VIỆC GÂY TẠO CHIẾN TRANH (Quảng Tánh), trang 12 ¨ CÁI THIỆN VÀ HẠNH PHÚC (Quảng Tánh), trang 13 ¨ CHỈ LÀ LỜI HỎI THĂM (thơ Thy An), trang 15 ¨ KHỔ THÁNH ĐẾ (Chân Hiền Tâm), trang 16 ¨ SAU LỤT LÀM BÀI THƠ VỀ CỎ (thơ Lê Vĩnh Tài), trang 20 ¨ ĐẠO ĐỨC VƯỢT KHỎI TÔN GIÁO (Tuệ Uyển dịch), trang 21 ¨ MÙA LŨ (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 25 ¨ LÀM THẾ NÀO ĐOẠN TRỪ CÁC LẬU HOẶC? (TN Hằng Như), trang 27 ¨ AI ƠI, MAU DỪNG LẠI (thơ Huệ Trân), trang 32 ¨ CHÙA LINH QUANG VÀ CHÙA TỪ ĐÀM Ở TRUNG VIỆT, VNPG Sử Luận, Chương 33 (Nguyễn Lang), trang 33 ¨ LOAY HOAY GIỮA CON ĐƯỜNG (thơ Du Tâm Lãng Tử), trang 36 ¨ CHẤP THỦ LÀ ĐÁNG SỢ (Lâm Thanh Huyền), trang 37 ¨ TRUYỀN THỐNG GĐPT
01/12/2020(Xem: 9635)
Từ Nguyễn Du đến Bùi Giáng, lục bát Việt Nam đã tạo nên một bước đi tân kỳ, một bước nhảy ngoạn mục, rung lên những tiếng thơ tự tình giữa trường mộng nhân sinh, nỗi ngậm ngùi nhân thế với niềm xao xuyến, bồi hồi. Rồi tiếp nối trên những bước đi song hành cùng lục bát, rạt rào bao sóng vỗ ngân nga, hòa âm thâm thiết với những tâm hồn quá đỗi tiêu sái như Hoài Khanh, Nguyễn Đức Sơn, Hồ Dzếnh, Phạm Thiên Thư, Huy Cận, Trần Xuân Kiêm, Huy Tưởng, Vũ Hoàng Chương… Đặc biệt Huy Tưởng, riêng một cõi trời thơ Mười Phương Tố Vọng phiêu diêu giữa Phương Chiều: Trũng hai mắt vọng bia đời Cổng tồn sinh mở mù khơi nắng tà Lòng tay nát mộng châu sa Phương chiều bãi quạnh mưa qua bến mình Nghiêng tầm con mắt soi kinh Vẳng nghe tâm lặng hồn chênh chếch về Phôi thu rụng lá mây đè Phiền ban sơ dậy đất se sắt lòng Im nghe thác máu loạn dòng Trôi phiêu lạc giữa vô cùng mộ Không
23/11/2020(Xem: 6757)
Phước duyên cho tôi khi được Me Tâm Tấn truyền trao gìn giữ một số thư từ còn lưu thủ bút & chữ ký của Chư tôn Thiền đức Tăng Ni vào những năm xưa xửa của thế kỷ trước. Trước, tôi đã có đôi lần giới thiệu thư từ bút tích của quý Ngài danh tăng Phật Giáo nước nhà như Ôn Trí Quang, Ôn Trí Thủ, Ôn Đỗng Minh, Ôn Đức Chơn, Ni trưởng Diệu Không, Ni trưởng Thể Quán... Hôm nay, tôi xin cung kính giới thiệu đến chư vị thủ bút và chữ ký của một bậc tôn quý vốn là cột trụ quan trọng trong ngôi nhà Phật pháp, một vị hộ pháp đắc lực của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam trong những ngày đầu của phong trào phục hưng, một thành viên cơ yếu của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất:
11/11/2020(Xem: 6580)
Mấy ngày mưa bão, rãnh rỗi ngồi soạn thư từ và hình ảnh, những kỷ vật mà Me Tâm Tấn luôn trân quý gìn giữ bao năm trời đã truyền trao lại cho tôi bảo quản làm tư liệu để tham khảo viết bài góp bút vào công tác hoằng pháp, tôi đã tìm thấy được những bức thư viết tay của một vị danh tăng Phật Giáo nước nhà: Cố Hòa thượng Thích Đức Tâm.
11/11/2020(Xem: 9543)
Trong quyển Yếu giải kinh A Di Đà lần đầu tiên xuất bản ở Việt Nam cũng như trên thế giới được in cả nguyên tác bằng chử Hán của Đại sư Linh Phong Ngẩu Ích cùng bản dịch Anh ngữ của Tiến sỉ J.C. Cleary và phần dịch sang Việt ngữ có chú giải của chính mình, học giả Lý Việt Dũng đã… “tự bạch” về “tiểu sử dài lòng thòng đáng chán của Song Hào Lý Việt Dũng”. Trong đó ông thẳng thắng nhận rằng: “Về quan điểm cuộc sống, tôi là người lạc quan tếu… Tôi cũng chay mặn tùy duyên, không bó thân trong những giới luật xa rời cuộc sống, chẳng có bổn sư vì chẳng quy y ai, chẳng có giới xơ cứng để giữ, sống đa cảm tự tại, có hơi “quậy” một chút!”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]