Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Duyên và Nợ

23/01/201910:09(Xem: 7897)
Duyên và Nợ
phat thuyet phap
Duyên và Nợ


Trong kho tàng văn chương truyền khẩu hay huyền thoại Việt Nam đã có nhiều chuyện duyên-nợ. Chẳng hạn chuyện tích Mưa Ngâu mà dân gian đã có thơ truyền tụng:
Tục truyền Tháng Bảy mưa ngâu.
Con Trời lấy đứa chăn trâu cũng phiền.
Một rằng duyên hai là rằng nợ.
Sợi xích thằng ai gỡ cho ra.

Chức Nữ con Trời, chuyên ngồi dệt lụa trong cung cấm mà lấy phải anh chàng chăn trâu thì đúng là chướng duyên hay nợ từ kiếp trước. Rồi chuyện Chử Đồng Tử và Tiên Dung Công Chúa. Tiên Dung Công Chúa con Vua Hùng thứ 18 đáng lý ra phải lấy một hoàng tử đẹp trai mới gọi là lương duyên chứ. Thế tại sao lại lấy một anh chàng nhà nghèo không có khố để mang? Cái này rõ ràng là nợ và làm vua cha buồn lòng.
Thế nhưng Tiên Dung Công Chúa là người thông minh tuyệt vời và hiểu rằng đời này làm gì có sang hèn. Công chúa con vua, vua bị truất phế, ngày mai ra chợ bán rau là lẽ thường. Còn Chử Đồng Tử lại là một Phật tử cho nên hai người đã biến nợ thành mối lương duyên , đẹp lòng cả vua cha, đẹp lòng nhân gian và còn lưu truyền mãi tới ngày nay.

duyen no
Nhân gian thường không hiểu trong Duyên có Nợ và trong Nợ có Duyên cho nên đã tách biệt Duyên và Nợ. Theo dân gian thì:     
 
1) Nợ là gặp nhau, lấy nhau để đem lại khổ đau, phiền não cho nhau, chẳng hạn như: Mắng chửi, đánh đập, ghen tuông, hành hạ nhau, phá nát tài sản. Nếu là con cái thì lêu lổng, trộm cướp, nghiện ngập xì-ke ma túy, cuối cùng ngồi tù làm khổ cha mẹ, anh chị em. Nợ có nhiều thứ như:
- “Nợ đồng lần” là nợ từ thế hệ này sang thế hệ kia. Thí dụ: Ông bà phải nuôi cha mẹ chúng ta. Cha mẹ chúng ta phải nuôi chúng ta. Rồi chúng ta phải nuôi con. Con chúng ta lại phải nuôi cháu chúng ta. “Nợ đồng lần” cũng có nghĩa là nợ truyền kiếp từ đời này sang đời kia. Thú thực mà nói, ngày nay sau khi học Phât,  nhìn thấy cô gái mang thai tôi thương cảm vô cùng. Có con thì vui đó, nhưng biết bao trách nhiệm, bao gian nan, bao cực nhọc để nuôi con. Khi con khôn lớn chưa chắc đã báo đáp công ơn cha mẹ. Đúng là “nợ đồng lần” của kiếp người.
-“Nợ đời” tức là phải nai lưng ra phục vụ cho đời vô cùng cực nhọc. “Nợ đời”cũng có nghĩa là “kiếp người phải thế”. “Kiếp tằm phải nhả tơ” cũng nằm trong ý này.
-“Nợ áo cơm”. Đã sinh ra thì phải sống. Muốn sống phải có áo cơm. Muốn có áo cơm phải làm việc vất vả, buông ra thì chết, giống như món nợ vậy. Bình minh vừa  ló dạng, con chim phải rời tổ để đi kiếm ăn. Nhìn cánh chim bay lượn trên trời chúng ta ước ao được như chim nhưng có biết đâu nó đang hối hả để kiếm mồi, không có miếng ăn thì chim sẽ đói và chết. Loài vật cũng “nợ áo cơm” như chúng ta.

2) Duyên là gặp nhau để đem lại sự tốt đẹp và hạnh phúc cho nhau. Duyên có “lương duyên” và “duyên trời”. Trai gái lấy nhau gọi là “kết duyên”.
-Tuy nhiên cũng có những thứ duyên không tốt như “vô duyên”. “Ăn nói vô duyên” tức nói lạc lõng không ăn nhập gì tới chuyện đang bàn.
-Rồi “vô duyên đối diện bất tương phùng”. Vô duyên ở đây có nghĩa là không tâm đầu ý hợp, không cùng một tần số, chỏi lại nhau. Khi đã “vô duyên” rồi thì, ngồi cùng bàn, ở cùng phòng, ăn cùng mâm cũng không thèm nói chuyện với nhau.  Còn xa tít mù khơi nếu tâm đầu ý hợp thì gọi điện thoại, gửi điện thư, lời nhắn liên miên, tâm sự cho thỏa thích.
-Rồi “vô duyên” còn có nghĩa là không thích, không mến, không hấp dẫn. Chẳng hạn như nói, “Tôi vô duyên với đá bóng.” Điều này có nghĩa là dù tôi đã tập đá bóng nhiều lần nhưng cuối cùng đá bóng không phải là sở trường, sở thích của tôi.
-Còn “có duyên” tức là không đẹp lắm nhưng nhìn dễ ưa, dễ mến. “Ăn nói có duyên” là ăn nói vui vui mà hợp lòng người.
-“Có duyên” còn có nghĩa là thích, thích hợp, gắn bó. Chẳng hạn như nói, “Tôi có duyên với Phật pháp.” tức Phật pháp hợp với tôi, dù chỉ nghe qua một vài lần tôi đã hiểu và tin theo.
-Duyên còn có nghĩa là  “do run rủi”, do tình cờ mà gặp nhau, do hoàn cảnh đẩy đưa. Thí dụ: Cùng đi thi, cùng gặp nhau trong một chuyến du lịch, trong một tiệc cưới, trong một ngày hội, cùng học một trường. Cụ Nguyễn Khuyến trong bài thơ khóc Cụ Dương Khuê đã gọi chuyện hai người kết bạn với nhau là “duyên trời” qua câu thơ, “Trong cơn gặp gỡ biết đâu duyên trời”.
-Có một thứ duyên rất tức cười là “duyên con bò”. Tức gặp nhau thì mừng rỡ, thương mến, nhưng sau đâm ra cãi cọ nhau tối ngày, xung đột rồi chia tay.
-Rồi “duyên kiếp” tức do số phận lôi kéo phải ăn ở với nhau suốt đời nhưng không ưng ý. Trong các bản nhạc Bolero ủy mị thường thấy người ta khóc than “duyên kiếp bẽ bàng” rồi có khi “duyên thừa” nữa!
-Rồi “duyên phận” là người ta thì tốt, còn mình thì hẩm hiu, như lấy phải chồng xấu, chồng nghèo, vợ xấu vợ nghèo.
-Duyên còn có thể định nghĩa là “điều kiện”hoặc “hoàn cảnh bên ngoài” để hai sự kiện, hai cá nhân gặp gỡ và tác động vào nhau. Trong hóa học có thể gọi “duyên” là chất xúc tác. Trong Đạo Phật có Thập Nhị Nhân Duyên để giải thích mọi nguyên do của khổ đau, sinh tử luân hồi và vạn pháp trong cõi Ta Bà này.
-Rồi phước duyên có nghĩa là trong cuộc đời này gặp tai nạn, khổ đau, bất ưng muốn tự tử chết cho rồi, may gặp thiện tri thức, tăng/ni chỉ bảo cho, bỗng đại ngộ, thay đổi cả cuộc đời và tìm thấy hạnh phúc.

duyen no 2

            Theo quan niệm của người đời thì duyên là duyên, nợ là nợ và không thể nào nợ thành duyên. Chẳng hạn không có chuyện chủ nợ đến đòi nợ lại vui vẻ, tha thứ cho con nợ. Nếu không trả nợ thì phải truy tố ra tòa hoặc có thể mướn sát thủ đòi nợ thuê để thanh toán.
Thế nhưng theo Đạo Phật thì: Nếu trong sinh đã có tửtrong vui đã có buồntrong ngày đã có đêm, thì trong duyên đã có nợ và trong nợ đã có duyên. Tất cả đều do Tâm mình mà ra. Thí dụ:
-Một đôi trai gái xứng đôi vừa lứa lại, đẹp đẽ, giàu có, danh vọng, yêu nhau say đắm, rồi lấy nhau, đám cưới linh đình như đám cưới của hoàng gia. Báo chí, truyền hình loan tải, cả triệu triệu thanh niên thiếu nữ thèm khát. Đây đúng là duyên trời, là hạnh phúc tuyệt vời của thế gian. Thế nhưng chỉ vài năm hay vài tháng đã đưa nhau ra tòa rồi ly dị vì không chịu nổi nhau do: Lối sống khác nhau, sở thích khác nhau, món ăn khác nhau, bạn bè giao du khác nhau, cách nuôi dạy con cái khác nhau, trình độ hiểu biết khác nhau. Bà tối ngày trưng diện, sơn móng tay, quần áo mới mặc một lần đã quăng bỏ, giày dép, túi xách, nữ trang sắm không biết mệt… và cả trăm thứ khác nhau khiến cãi cọ liên miên, coi nhau như thù địch và… chia tay. Như vậy câu chuyện tình khởi đầu là lương duyên, trong chớp nhoáng đã biến thành nợ. Trong Tam Quốc Chí, ba anh em Lưu-Quan-Trương gặp nhau tâm đầu ý hợp kết nghĩa đệ huynh để mưu đồ đại sự, đúng là duyên trời. Thế nhưng cam kết “đồng sinh, đồng tử” không thể nào thực hiện được đã biến duyên trời thành món nợ vô cùng rắc rối, phá hỏng sự nghiệp của Lưu Bị khi Quan Vân Trường bị Lữ Mông chém đầu. Nếu Lưu Bị không cất quân báo thù cho Quan Vân Trường theo lời van xin, thúc ép của Trương Phi thì là kẻ bất nghĩa, phản lời thề. Mà cất quân đánh Đông Ngô thì vô cùng bất lợi, tai hại cho đại cuộc. Cho nên trong đời này chúng ta chớ vội mừng khi gặp mối lương duyên và chớ vội buồn khi chúng ta gặp “của nợ”. Quỷ Vô Thường của cuộc sống này sẽ biến Nợ thành Duyên và Duyên thành Nợ trong chớp nhoáng.
-Một đôi trai gái do hoàn cảnh éo le nào đó đã phải lấy nhau, thật không ưng ý, đúng là của nợ. Thế nhưng người vợ hay người chồng do được biết tới Phật pháp đã thực hành hạnh yêu thương và nhẫn nhục để biến thực tại không ưng ý thành hạnh phúc. Họ biết chịu đựng nhau, biết giúp đỡ, an ủi và hiểu nhau…cuối cùng thì hai người đã tìm thấy hạnh phúc. Tôi đã có dịp xem một chương trình truyền hình trên đài Fox News lớn nhất nước Mỹ.  Khi họ hỏi một người đàn bà Mỹ khá thành công là tại sao bà luôn luôn sống hạnh phúc. Câu trả lời đơn giản và đầy bất ngờ là, “Tôi hạnh phúc là vì tôi không tranh cãi hay xung đột với chồng tôi. Hễ ông ấy thích cái gì thì tôi thích cái nấy.”
Bạn ơi,
Chúng ta có vạn cách để làm cho người ta ghét mình.
Và chúng ta cũng có cả ngàn cách để người ta yêu thương, quý trọng mình.
Vậy thì,
Trong đời này,
Nếu may mắn có Duyên rồi thì hãy củng cố và giữ gìn Duyên ấy.
Hạnh phúc không phải là chuyện tự nhiên hay trên trời rơi xuống.
Mà do nỗ lực, cảnh giác, vun đắp từng ngày.
Xin bạn nhớ cho,
Cái gì cũng có thể bị Quỷ Vô Thường lấy đi.
Cho nên phải uyển chuyển để đối mặt với nó.
Còn nếu như bạn mắc Nợ,
Thì xin bạn công bằng mà trả nợ.
Nhưng hãy trả bằng hạnh nhẫn nhục và vị tha.
Bạn sẽ từ từ sẽ biến Nợ thành Duyên.
Qua câu chuyện Chử Đồng Tử và Tiên Dung Công Chúa,
Nếu bạn là con gái của đại gia,
Lấy phải anh chàng nghèo xơ xác.
Chưa chắc đó là nợ,
Mà có thể là mối lương duyên.
Còn bạn hào hoa, đẹp trai, học giỏi.
Lấy phải “cô bé lọ lem”.
Coi chừng đó lại là mối tình hoa mộng.
Bởi vì biết đâu trong đời bạn “lên voi xuống chó”.
Mà “cô bé lọ lem” đó vẫn còn yêu bạn.
Thì đây chính là người tình chung thủy tuyệt vời.  
Thế thì,
Duyên và Nợ cùng chung một thể.
Do tâm mình biến hiện mà thôi.
Khi bạn yêu thì đó là duyên.
Khi bạn ghét và không ưng thì đó là nợ.
Nếu bạn hiểu được như thế.
Thì bạn sẽ hạnh phúc trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời.
Hãy tạm ví dòng sông tuợng trưng cho khổ đau.
Người không biết bơi nhảy xuống đó là cuộc tự sát.
Còn đối với người biết bơi lại là cuộc tắm mát nhẹ nhàng.
Bạn ơi,
Pháp Phật sẽ giúp bạn,
Biến nợ thành duyên,
Biến khổ đau thành hạnh phúc.
Bạn hãy tin như thế.


Đào Văn Bình
(Calfornia ngày 22/1/2019)






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24649)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9483)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 11174)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3630)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5398)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3264)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10817)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3752)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15228)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3525)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]