Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Kịch bi: Lá Sầu...Chung

13/08/201821:22(Xem: 4327)
Kịch bi: Lá Sầu...Chung
hoa hong
Kịch bi: Lá Sầu...Chung
Trần Thị Nhật Hưng
 

Hai màn:
Diễn viên: Hai mẹ con
 

Lời giới thiệu:

 

Kính thưa Quí vị.

   Nếu “lá sầu riêng„ chúng ta ví biểu tượng của sự hy sinh, kham nhẫn, nhịn nhục, chịu sầu khổ riêng mình không muốn hệ lụy đến ai, thì Lá Sầu...Chung, một giống lá mới trồng hôm nay phát sinh từ lòng nhỏ nhen, ích kỷ sẽ đem sầu khổ chung cho bao người. Đó là nội dung của vở bi kịch sau đây qua sự diễn xuất của hai mẹ con. Kính mời Quí vị thưởng thức.

Đây, bi kịch “Lá Sầu Chung„ bắt đầu.

 

*Màn 1: Trong vườn chùa

(Nhạc đệm nho nhỏ bài “Lòng mẹ”)

 

Con (lửng thửng trên sân chùa): Hôm nay là Vu Lan.Trên thế gian này bao chùa đang tưng bừng làm lễ báo hiếu mẹ, vinh danh mẹ, tưởng nhớ mẹ; là cơ hội đền đáp ơn sinh thành dưỡng dục mẹ hiện tiền và cả ngay khi mẹ đã khuất.

  Cửa chùa mở rộng chào đón mọi người làm lễ cài hoa. Hoa màu hồng sẽ được cài lên áo người may mắn còn mẹ. Hoa trắng dành cho kẻ mẹ đã khuất núi.

  Riêng tôi, tôi cài hoa gì đây, có hân hạnh được cài hoa không nữa dù là hoa trắng? Đó là câu hỏi mà từ nhiều năm rồi, kể từ khi tôi mới lọt lòng cho đến bây giờ, tôi luôn thắc mắc.    

   Cũng như bao người, lẽ đương nhiên, tôi cũng được sanh ra từ một người mẹ, nhưng mẹ tôi đã nhẫn tâm bỏ rơi tôi trước cổng chùa khi tôi mới lọt lòng còn bế ngữa. Số phận tôi như vậy đó.

  Tôi mất mẹ, không có mẹ giữa khi mẹ tôi đang còn sống. Mẹ từ bỏ tôi, chứ tôi không bỏ mẹ.

   Hôm nay, sau mấy chục năm trời, mẹ mới tìm đến tôi, chịu nhìn tôi, khi tôi đã quen rồi cuộc sống của một đứa trẻ mồ côi.

   Bà tìm tôi để làm gì chứ?!

Mẹ (xuất hiện): Hồng, con. Mẹ tìm con để tỏ lòng sám hối và muốn nói với con hai chữ “xin lỗi”! Cầu mong con... tha thứ cho mẹ!

Con: Chào...bà!

Mẹ: Mẹ chào con!

Con: Bà à, vừa rồi tôi nghe bà nói đến hai chữ “xin lỗi và tha thứ”. Chỉ hai chữ…xin lỗi thôi sao. Chỉ hai chữ…tha thứ thôi sao, để tôi và bà nhìn nhau là mẹ con?!

Mẹ: Đúng vậy. Bao năm qua, mẹ ray rứt lắm con ơi. Con hãy…từ bi tha thứ cho mẹ.

Con: Từ bi?! Bà kêu gọi lòng từ bi nơi tôi à?! Tôi xin hỏi bà. Vậy thì mấy chục năm về trước sao bà không đánh thức lòng từ bi nơi bà để nuôi nấng tôi, một đứa bé còn đỏ hỏn mới lọt lòng rất cần tình thương nơi bà, cần vòng tay ấm áp của mẹ! Bà bỏ rơi tôi một cách tàn nhẫn như vậy trước cổng chùa, khi tôi đang khát sữa, tôi cất tiếng khóc gọi bà, gọi lòng từ bi nơi bà, mà bà có nghe đâu.

Mẹ: Con ơi. Con không hiểu được lòng mẹ lúc đó. Mẹ đứt từng khúc ruột, khi phải hành động như vậy, bởi vì…mẹ thương mẹ của mẹ tức bà ngoại của con đó và bao người trong gia đình để giữ ...danh dự cho gia tộc.

    Con biết không, lúc đó mẹ còn trẻ người non dạ, chịu áp lực của bao người, mẹ đành đoạn làm những điều mà lòng mẹ không muốn. Cha con đã tử trận khi mẹ đang mang thai con. Cuộc tình vụng trộm lỡ làng ấy, đã để lại trong mẹ, chính là con đó.

Con: Danh dự à?! Danh dự của bà và danh dự của gia tộc à.Tất cả mọi người đem sinh mạng bé nhỏ của một trẻ sơ sinh để đánh đổi danh dự của gia tộc. (hét) Ích kỷ như vậy sao? Tàn nhẫn như vậy sao?!

Mẹ: Bây giờ mẹ nói gì con cũng không hiểu được nỗi lòng mẹ. Con chỉ biết là...bao năm qua, mẹ sống âm thầm trong cắn rứt, trong đau khổ, khi nhìn thấy con sờ sờ trước mắt mà không dám nhìn con. Cho đến bây giờ, khi có cơ hội thuận tiện, ông bà ngoại đã qui tiên, chồng mới của mẹ cũng qua đời, mẹ mới được quyền tìm đến con với lòng sám hối vô vàn của mẹ.

Con: Bà cũng biết đau khổ sao? Nhưng nỗi đau khổ của bà có bằng nỗi đau khổ của tôi không?

   Khi tôi khát sữa, bà biết không, tôi đã phải mút tay để thay vú mẹ. Đêm đêm tôi khóc vì cần hơi ấm của mẹ. Lúc đó bà ở đâu? Bà đang trên giường êm nệm ấm với người chồng mới.

   Rồi khi tôi vừa lớn chập chững vô trường học, nhìn các bạn có mẹ, có cha đưa đón mỗi lúc tan trường, tôi cứ thắc mắc, mẹ tôi đâu, cha tôi đâu?!

   Chúng bạn thì vô tình đùa cợt trên nỗi đau của tôi, rằng tôi là đứa trẻ mồ côi ăn cơm thí của nhà chùa. Chúng cười trên sự bất hạnh của tôi. Chúng hà hiếp tôi, mà có ai binh vực tôi đâu? Lúc đó, bà biết tôi buồn lắm không, tôi đau lắm không. Tôi chỉ lặng lẽ đứng khóc, về nhà bỏ ăn, bỏ uống, được sư bà dỗ dành rằng, tôi cũng có mẹ, mẹ chính là sư bà đó.

   Bây giờ lớn lên tôi hiểu rõ tất cả và chỉ biết ngậm ngùi thương cho số phận của mình thôi.

Mẹ: Bây giờ con nói sao cũng được. Con cứ mắng mẹ đi, nguyền rủa mẹ đi để lòng con thanh thản, vơi đi bao uất ức bấy lâu. Nhưng sau đó, mẹ cầu xin con hãy tha thứ cho mẹ. Con có tha thứ cho mẹ, và nhìn mẹ, …mẹ mới an lòng ngậm cười nơi chín suối (húc hắc ho). Mẹ già rồi và đang vướng bịnh ung thư, con ạ !

Con: Thôi, bà đừng nói nữa. Bà hãy về đi. Nhân đây, tôi cũng xin cám ơn bà, hồi đó còn có chút lương tri bỏ tôi nơi cửa chùa. Chứ không quá ác độc nhẫn tâm ném tôi vào sọt rác, ống cống hay gốc cây nào đó để cho kiến bu, ruồi đậu. Cám ơn bà, cám ơn bà nhiều lắm, để tôi còn có hình hài ngày hôm nay. Thôi, bà về đi,..bà về đi. Tôi không muốn thấy mặt bà! (nói xong, òa khóc, chạy vào trong).

Mẹ (vói theo): Con, con, con của mẹ...!

 

*Màn 2 : Tại nhà người mẹ

(Nhạc đệm nho nhỏ bài “Lòng mẹ”)

 

(Mẹ đang nằm trên giường bịnh húng hắng ho. Con chạy đến quì bên giường).

Con: Mẹ,… mẹ ơi,… con đến thăm mẹ nè. Mẹ tỉnh dậy đi, mẹ. Sư bà đã cho con hay mẹ đang hấp hối. Con đến với mẹ đây. Mẹ tỉnh dậy đi, mẹ. Con đây nè, mẹ. (lắc đầu): Mẹ tôi không dậy được nữa rồi. Mẹ…ơi!

   (Tỉ tê): Mẹ ơi, con hối hận lắm mẹ ơi. Là Phật tử mà con đã quên lời Phật dạy. Con cố chấp, thiếu lòng từ bi hỉ xả để mẹ con ta đau khổ triền miên như thế này.

   Mẹ ơi, nếu…lá sầu riêng được biểu tượng của hạnh kham nhẫn, nhịn nhục, thì lá sầu…chung xuất phát từ lòng oán hận, vị kỷ, nhỏ nhen của con, chỉ mang đau khổ cho nhau thôi.

  Nay con biết sám hối rồi mẹ, con tìm đến mẹ thì mẹ lại bỏ con đi.

Mẹ (húng hắng ho, chồm dậy): Con, Hồng đó hả con.

Con: Dạ,... con đây,… con đây.

Mẹ (thều thào): Hồng…ơi. Con, con của mẹ.

Con: Dạ, con đây, con đây.

Mẹ: Con ơi. Trong giờ phút này, trong cơn mê mệt này, mẹ được nghe tiếng con gọi  “mẹ”, là mẹ vui sướng lắm rồi. Coi như con đã tha thứ cho mẹ. Mẹ có nhắm mắt, cũng an lòng nơi chín suối.

Con: Mẹ, mẹ ơi. Mẹ đừng nói như vậy. Mẹ hãy tỉnh dậy đi mẹ, mẹ hãy sống đời với con. Con biết lỗi của mình rồi. Con ân hận lắm, mẹ ơi.

Mẹ: Con ngoan của mẹ. Mẹ rất tiếc, khi mẹ con ta tìm đến nhau thì sức mẹ đã không còn. Mẹ muốn bù đắp những chuỗi ngày còn lại cho con. Đền bù cho con tất cả. Nhưng không được nữa rồi. Mẹ mệt lắm, mẹ mệt lắm con ơi. Con,..con... ở…lại…mạnh …giỏi…(Nói xong, suôi tay nhắm mắt)

Con: Mẹ, mẹ ơi, sao mẹ lại bỏ con…! Mẹ ơi…!

Màn hạ

Trần Thị Nhật Hưng

Vu Lan 2018

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24404)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9382)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10984)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3612)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5316)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3235)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10478)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3725)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15025)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3476)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]