Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo và con người đất Bình Đinh

06/08/201817:13(Xem: 7673)
Phật Giáo và con người đất Bình Đinh


Duong Kinh Thanh 2018 (8)

Hội Thảo Phật Giáo và Văn Hóa Bình Định

 

Phật Giáo và con người đất Bình Đinh



1-Con người đất Bình Định

Khi  nói đến  con người và văn hóa Bình Định, một cách tổng quan, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra  những khía cạnh nhân văn rất đáng ngưỡng mộ. Trước hết đó là  Đào Duy Từ ( 1572 – 1634 ), trải lòng  trắc ẩn qua những áng văn thơ của một danh sĩ bôn ba đội lốt chăn trâu, chí nam nhi thời loạn, sự thức thời của sứ mạng vua tôi bên cạnh lẻ ứng sử trong  bối cảnh một đất nước tồn vong vì họa ngoại bang.Ông còn là người đầu tiên mang về cho Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên ( 1613 – 1635) bộ môn nghệ thuật Hát Bội (Tuồng) đặc sắc . Là một Đào Tấn ( 1845 – 1907 ), ông Hậu Tổ của nền nghệ thuật Hát bội  đặc sắc của dân tộc, ông còn là nhà  nhà văn, nhà thơ lỗi lạc, rất am tường Phật học lẫn Nho học. Rời một Mai Xuân Thưởng  ( 1860 – 1887 ) với mỗi tiếng thơ làm mỗi  tiếng thốt ra tự cõi lòng trước lúc đầu rơi. Một Tăng bạt Hổ ( 1858 – 1906 ) với con đường truân chuyên bôn ba   tứ xứ. Một Nguyễn Bá Huân ưu thời mẩn thế ( 1853 – 1915).Nguyễn Trọng Trì ( 1854 – 1922) chí khí lắng sâu đêm nguyệt tận, một lòng  một dạ với nghĩa quân Cần Vương . Là Đào Phan Duân ( 1864 – 1947) tiết tháo,  bỏ mặc ven đường học vị Phó Bảng đề đánh Tây. Một Hồ Sĩ Tạo ( 1841 – 1907 ) xả thân dưới cờ nghĩa, nằm lại đất này cho thơm tiếng Bình Định  ngàn sau. Hay như  đất  Vân Sơn có năm anh em  nhà họ Nguyễn rất giỏi thơ phú, thi ca, tiếng tốt  vang xa ai cũng đều mến phục.

                            Riêng trong dòng thơ mới, đất Bình Định  còn sản sinh ra những  nhà thơ  tài danh như  một Xuân Diệu ( 1916 – 1985) với  nỗi cô đơn  lai láng trong biển tình nhân thế. Hàn Mặc Từ( 1912 – 1940 ) bó hoa của những miền phiêu linh. Một Chế Lan Viên  ( 1920 – 1989 )với gạch rụng sao rơi  vắt ngang những ánh mắt Chiêm Thành . Còn có một thi nhân Quách Tấn  trang trọng, đài các của ngọn gió Đường Thi phả trên bờ dậu lũy tre, suối ngọt mây thơm quê hương Bình Định. Nơi này còn có tiếng gọi đò chờn vờn trong trăng lạnh của một Yến Lan ( 1916 – 1998 ) trầm mặc bên cạnh  ngọn bút viết kịch  tài hoa.( 1)

                           Đó là chưa  nhắc đần  Bình Định gắn liền với  câu ca dao xưa ca ngợi là một miến đất võ vang lừng khắp đó dây, nhất là  khi  cuộc chiến thắng của anh em nhà Tây Sơn thì môn võ đặc thù đã được thành hình và lan rộng  mọi nơi. Trong đó, trống võ Tây Sơn đã trở thành  một môn nghệ thuật  xuất sắc mà đến bây giờ vẩn còn làm  du khách  say đắm mỗi khi  ghé thăm.


2-Phật Giáo  đất Bình Định

Miền đất võ Bình Định cũng là miền đất Phật, miến “Đất LànhChim Đậu”, được  nhiềuchư thiền Tổ  ghé bước hoằng hóa và  chư  tôn thiền đức bản địa xây dựng  mạnh mạch  Phật đạo  từ trong sâu thẳm, qua nhiểu giai đọan, thời gian, đã xây dựng nên  hình ảnh  Phật giáo Bình Định rạng rở như ngày hôm nay. Đặc biệt trước tiên có thể kề đến Tổ Nguyên Thiều ( 1648 – 1728 ), Hòa thượng Thích Phước Huệ ( 1875 – 1963 ), Hòa Thượng Bích Liên-Trí Hải ( 1876 – 1950 ), v…v…Nêu chúng ta tính từ thời chúa Nguyễn Phúc Tần ( 1619 – 1682 ), khi Tổ Nguyên Thiều từ Quảng Đông (Trung Quốc) sang An Nam và an trú ở Quy Ninh (tức Bình Định ngày nay) vào năm Ất Tỵ (1665 ) và kiến tạo chùa Thập Tháp Di Đà , thí Phật giáo Bình Định  đã thực sự bước vào trang sử chung trong công cuộc hoằng hóa của Phật giáo Việt Nam. Hơn thế nữa, Tổ Nguyên Thiều còn là cầu nối giữa Phật giáo hai nước An Nam và Trung Hoa, trao đổi  nhiều kinh điền có  giá trị  để cùng nhau tu học. Điều này cho thấy, lý tưởng Từ Bi và con đường  hoằng hóa  của Phật đà luôn mang trong mình sức sống vị tha, nhân ái và hòa  bình, hữu nghị qua từng bước chân  hài cỏ của chư tổ ngàn xưa mà hình ảnh Tổ Nguyên Thiều là một điển hình cao đẹp ấy. Với Hòa Thượng Thích Phước Huệ, vị danh tăng làm rạng danh thêm  cho Phật giáo và vùng đất Bình Định, khi váo các triều vua Thành Thái( 1889 – 1907 ) , Duy Tân ( 1900 – 1945 ) và Khải Định (1885 – 1925) thường mời vào cung thuyết giảng nên được triều đình và sơn môn đồ chúng tôn xưng Quốc Sư.       

Năm 1970, để tưởng niệm và ghi công, Giáo Hội Phật Giáo Việt NamThống Nhất tỉnh Bình Định đã chọn pháp hiệu của hòa Thượng đặt tên cho  Phật học viện  tại tổ đình Thập Tháp: Phật học viện Phước Huệ. “Cái tướng Hữu, Vô trong tâm pháp của Ngài đã thống nhất, giúp cho hạnh nguyện độ thoát quần mê và sự tự tồn dân tộc qua  Duy Tân( Vua), Tâm Minh (Cư sĩ), Mật Thể, Thiện Hoa (tu sĩ).v…v.. trở thành ngọn nguồn bất tận, đến muôn đời sau của Phật giáo Việt Nam” (2).

ht thich bich lien
Hòa thượng Bích Liên – Thích Trí Hải (1876 – 1950)

                         Hòa thượng Bích Liên – Thích Trí Hải, người con của đất An Nhơn hiền hậu, Ngài cũng  góp phần làm rạng danh Phật giáo Bình Định nói riêng và Phật giáo Việt Nam nói chung  trong quá trình tích cực tham gia phong trào chấn hưng Phật giáo,  phụng sự táp chí Từ Bi Âm thường xuyên, góp phần  gióng lên hồi chuông thức tỉnh cho Phật giáo đồ  khắp chốn. Với văn phong chữ Nôm rất chỉnh,Hòa Thượng   phiên dịch trước tác các tác phẩm giá trị như Liên Tông Thập Niệm Yếu Lãm, Tịnh Độ Huyền Cảnh, Tây Song Ký, Tích Lạc Văn. Đặc biệt hơn các bài sám nghĩa  “ Sơn Cảnh Sách” và “Mông Sơn Thí Thực Khoa Nghi”, hai tác p[hẩm chữ Nôm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp văn chương của Hòa Thượng và là các bản sách gối đầu giường cho các thế hệ  mới bước vào nẻo xuất gia. Đó là chưa nói đến  hành trạng và công lao của chư tôn  thạc đức khác của Phật giáo Bình Định, từng vị với nhiều trọng trách khác nhau và điều kiện thời gian khác nhau, góp phần nâng cao vị thế  Phật giáo tỉnh nhà thêm cao trong lòng  dân tộc. Như Hòa Thượng Hưng Pháp ( 1887 – 1075), H.T Tâm Hoàn( 1924 – 1981), H.T Giác Tánh ( 1911 – 1987 ), H.T Thích Đổng Quán ( 1925 – 2009), Ni trưởng TN Diêu Hiền ( 1939 – 2014), H.T Thích thiện Nhơn ( 1931 – 2015), HT Thích Quảng Bửu ( 1944 – 2016), HT Thích Tịnh Nhẫn ( 1948 – 2013), H.T Thích Phước Thành ( 1918 – 2014) v…v…

                      Phật giáo Bình Định  còn sản sinh ra  dòng tán tụng của riêng  mình, so với Phật giáo Huế và Phật giáo Phú Yên, ba vùng đất  có hệ tán tụng  trong nghi lễ Phật giáo của vùng trung trung bộ này, góp phần  không nhỏ vào sự đa dạng văn hóa, nghệ thuật, phổ cập trong công cưộchoằng hóa theo chiều dài lịch sử của từng vùng  đất Phật giáo hiện diện.Điều này chứng tỏ Phật giáo Bình Định  xứng đáng là một vùng đất vốn là nơi xuất thân của nhiều bậc danh tăng  lỗi lạc.

3- Hát Bội  đất Bình Định

                     Võ truyền thống, văn chương  kiệt  xuất, tất cả  như thấm đượm tinh thần  thưởng thiện phạt ác và Từ bi  Vị Tha của Phật giáo qua hai ngàn năm chia ngọt xẻ bùi và hòa quyện cùng dân tộc. Chỉ riêng bộ môn nghệ thuật Hát Bội thôi cũng đủ chứng minh  Bình Định chính là cái nôi sản sinh cho gia sản văn hóa dân tộc bộ môn đặc sắc này. Ở Bình Định, hầu như vùng nào người dân cũng ghiền và biết ca diễn Hát Bội.Có thời, mỗi xã thậm chí mỗi thôn nào cũng đều có thành lập một đoàn Hát Bội. Song để  có được tính chuyên nghiệp cao để được mời đi hát Tế, hát Thứ Lễ thì  không phải đoàn nào cũng làm được. Thí dụ, ví nằm gần làng Hát Bội Nhơn Hòa, gần học bộ đình Vinh Thạnh của Đào tấn nên người Nhơn Thành, An Nhơn không chỉ mê mà còn rành Hát Bội. Đã có  nhiều gánh Hát Bội thì phải có  bộ phận chuyên dựng rạp , sàn diễn. Vì thế ở vùng Đại Chí, xã Tây An, huyện Tây Sơn xưa có một tốp thợ chuyên phụ trách chuyện dựng rạp đi hát lễ.Đám hát nào họ cũng được mời đến trang trí rạp trước, ví có tay nghề cao và mang tính chuyên nghiệp hẳn hoi (3).

                     Không chỉ là yếu tồ giải trí đơn thuần, người Bình Định nói riêng  và khắp nơi nói chung, ngay từ buổi đầu sơ khai của bộ môn nghệ thuật Hát Bội đã mang lại,  người ta yêu thích bởi  nội dung chứa đựng đạo đức, nhân văn của  Hát Bội rất dầy đặc. Vì thế các vở diễn thường có kết cục có hậu  dù rằng ai cũng có thể biết trước . Điều rất thú vị là ở chỗ đó của Hát Bội. Điều này cũng ví như từng gương mặt hóa trang, điệu bộ, vũ đạo, khi diễn viên vừa bước  ra sân khấu  người xem nhận ra ngay hành tung của nhân vật đó ngay. Chính yếu tố đạo đức, nhân văn cao của hát Bội mà ông bà ta xưa đã  xây dựng  lối nghệ thuật ước lệ thông minh, không rườm rà hình thức tranh dành với  giả hợp  chung quanh, để người xem tập trung vào nhân vật, vào nội dung vở diễn.

                     Như đã nói, Phật giáo là một trong những  nguyên tố quan trọng , góp phần hình thành nên nếp sống, lối sống của người  và văn hóa đất Bình Định. Nghệ thuật hát Bội  cũng nằm trong nếp sống văn hóa ấy. Khổng Tử đã nói “Thẩm âm tri chính “ – Qua âm nhạc , nghệ thuật, để muốn biết giá trị tinh thần văn hóa nơi đó ra sao. Còn văn hào Pháp Victor Hugo ( 1802 – 1885 ) thí chinh trị hóa hơn khi cho rằng “ Một dân tộc nô lệ, nghệ thuật làm cho nó tự do; một dân tộc tự do, nghệ thuật làm cho nó vĩ đại”. Vì thế chúng ta từng chủ trương ra và sức bảo tồn giá trị nghệ thuật truyền thống dân tộc  chính là gìn giữ ý nghĩa  to lớn này.


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (5)Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (4)

                   

Một thí dụ điển hình về giá trị tinh thần Phật giáo, con người và văn hóa đất Bình Định qua nghệ thuật Hát Bội. Đó là cụ Đào Tấn ( 1845 – 1907 ), một người con  đất Bình Định ( người làng Vĩnh Thạnh, xã Phước Lộc, huyện Tuy Phước), một người rất am tường Phật học lẫn Nho học. Cụ là người có công lao rất lớn khi có một cuộc chỉnh biên các vở tuồng Hát Bội trong phường bản – tức các vở  đã có  trước  lưu hành trong dân gian. Và khi chỉnh biên xong đã trở thành  các vở của kinh bản, dưới triều vua Minh mạng ( 1791 – 1841 ). Vở hát Bội tiêu biểu nhất  mà cụ dày công chăm chút  là vở San Hậu. Một trong những vở Hát Bội hoàn toàn của  đất nước  và con người An Nam chúng ta, không phải của Trung Hoa, dù nội dung  có giã định  từ ngữ “Nhà Tề “ và “Nhà Tạ”.Theo các nhà nghiên cứu , chính cụ Đào Tấn đã chỉnh sửa và viết lại toàn bộ hồi thứ III của vở San Hậu, Nơi  mà có rất nhiều  tình huống nhân vật kịch chạm rất sâu vào  tư tưởng Phật giáo. Trước hết  về “thứ tự cấp bậc”( xin phép được nói vui) trong nhà Phật. Khi bà Nguyệt Hạo Tam Cung ( Tạ Nguyệt Kiểu ) vì buồn  chán ba đứa em dòng họ Tạ nhà mình, bỏ  vào tây Sơn Tự  xuất gia, nơi đó hiện có bọn xấu ( Giả Ngu) mạo danh tu hành chiếm ngụ, bày sẵn kế mưu để hảm hại bà, nhưng Hộ Pháp “ra lệnh “ cho Thành Hoàng : “Phụng mệnh Như Lai khiến / Nào dương cảnh Thành Hoàng (nghe ta dặn) Nay có bàNguyệt Hạo nương/ Thìn lòng nhân đức. có dạ tu trì/ Vã đây gần sơn tự ác tăng/ khá bảo hộ người lành kẻo hại.”Thành Hoảng đáp : “Thừa kim Thần sắc hạ/ Quản chúng tới hộ tòng/ Phòng khi chúng nó hành hung / Thời đã có ta bảo hộ”. Xuất hiện trong vở chỉ có  mấy câu đới đáp đó chỉ bằng âm thanh hậu trường, thay vì cho Quan Âm Bồ Tát  ra tay thậm chí Như Lai Phật Tổ  giáng phép , bấy nhiêu đó cũng đủ chứng minh ngòi bút của Đào Tấn   hiều biết Phật học ở cấp độ nào. Đả có nhiều  ý kiến khẳng định  Nội dung Hát Bội  hầu hết đều đề cao Nho gia, ca ngợi khí tiết quân chủ “Quân xử thần tử, Thần bất tử bất trung, bất hiếu”. Do đó con có thể chống lại  cha mẹ hay ngược lại, anh em , thân bằng quyến thuộc có thể trở thành cừu nhơn chỉ vỉ để bảo vệ nề nếp của đạo quân thần tử  theo kiều ấy. Và như thế  người ta so sánh vai trò Phật giáo trong các vở Hát Bội thường bị lu mờ, thậm chí trái ngược với chủ đề   nền tảng Nho gia. Thật ra  sự xuất hiện   của Phật giáo trong nội dung  Hát Bội thường nằm  ở góc độ tiềm ẩn và bàng bạc  trong các nội dung là  triết lý Nhân- Quả  khá rỏ nét. Có thể gọi đó là cái NHU so với cái CƯƠNG của Nho gia trong Hát Bội. Trong vở hát Bội San Hậu  thì những điều đề cao Nho gia đều bị hụt hẩng bởi cái NHU của Phật giáo thắng thế. Quả thật cụ Đào Tấn  luôn muốn đề cao  triết lý  Từ Bi, Nhân – Quả  của Phật giáo rõ nét hơn, phủ trùm lên nhiều nhân vật. Khi bọn Giã Ngu bị  Thành Hoàng Thổ địa vặn họng bẻ tay thì kịp lúc Đổng Kim Lân và Phàn Diệm cũng tới nơi và nói “Tới đây vì có Thần linh/ Cứu đặng cũng nhờ ơn Phật”. Và triết lý Từ Bi Nhân-Quả của Phật giáo trong vở được  cụ Đào Tấn đầy lên  đỉnh điểm ở phần cuối vở San Hậu. Đó là  cảnh trước  Phật đài   hương khói uy nghiêm của Tây Sơn Tự Bà Tam Cung Nguyệt Hạo – hiện cũng là  một vị Ni giới xuất gia, cho năm anh em dòng họ Tạ ( hiện đang  còn sống sót có hai Tạ Thiên Lăng và Tạ Lôi Vân), đang quỳ phủ phục, thấy rõ cái Quả mà họ đã tạo ra trước đây mà mình đã từng khuyên ca nhưng  không được.Với cái NHÂN lành của bà  Nguyệt Hạo  trước đây, từng ra tay cứu  giúp mẹ con thứ phi Phượng Cơ và ấu chúa, nay vua đã được  6 tuổi, bà van xin tha mạng cho hai đứa em tội nghiệp do nghiệp chướng sâu dầy. Hoàng tử vội đỡ  bà đứng lên và kính thưa lễ phép “Thưa Á Mẫu! Chi hai mạng chẵng dung/  Ước còn năm cũng thứ “. Thông thường đạo vua tôi Quân- Thần- Tử, công và tội phân minh. Xử chém trước rồi nói chuyện  ơn nghĩa sau. Ở đây lại khác,  Cụ Đào Tấn  nhấn mạnh đức hiếu sinh và lòng từ đại lượng của Phật giáo bao giờ, lúc nào, ở đâu cũng nằm trên thế  thượng võ, đáng được  đề cao.


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (3)

Tác giả Dương Kinh Thành


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (1)
Tác giả Dương Kinh Thành


Duong Kinh Thanh_Hoi Thao Van Hoa PG Tinh Binh Dinh_2018 (2)

Tác giả Dương Kinh Thành
Bên Bảo Tháp Đức Đệ Tứ Tăng Thống Thích Huyền Quang (xem tiểu sử)




Tưởng cũng cần nói thêm  rằng trong nghệ thuật Hát Bội có nhiều thể loại để phân định qua cách gọi Tuồng Đồ , Tuồng Pho, Tuồng Truyện, Tuồng Hài, Tuồng Dân Gian v…v..Như vậy vở San Hậu thuộc  thể loại  Tuồng Đồ, tức phóng tác hay dựa theo, không có trong sử sách. Tuồng Pho là thể lọai  biểu diễn dài hơi, kéo dàinhiều đêm mới hết vở diễn. Tuồng Truyện phần lớn thuộc  truyện của Trung Hoa như  Tam Quốc Chí, Tiết Nhơn Quý.v…v…Tuồng Hài như “Ông Trượng Tiên Bửu, Ông Địa và Nàng Tiên, Trương Ngáo Đòi Nợ Phật, Trương Đồ Nhục v…v…Tuồng Dân Gian như Ăn Khế Trả Vàng, Quan Âm Thị Kính. Quả Báo Nhãn Tiền v…v…Qua đó, chúng ta  thấy rõ không phải vở diễn Hát Bội nào cũng  thuộc  lịch sử, câu chuyện của Trung Hoa. Ngay cả cách hóa trang, điệu hát hoàn toàn  không giống bất kỳ một chi tiết nào của  thể loại Kinh Kịch  của xứ người. Có thể, còn chút vương vấn  bị cho là “lai Tàu” hoặc qua  các bộ giáp trụ của diễn viên Hát Bội chúng ta ? Nhưng điều đó cũng không cáo gì sai trài một khi tinh túy và hình thức của Hát Bội đã hoàn toàn  thuộc về bản sắc người An Nam từ lâu. Ngay như  Hát Bội Bình Định  ( đại diện cho cả khu vực  miền trung) và Hát Bội miền Nam cũng đã rất  khác nhiểu mặt, dù nội dung các vỡ diễn vẫn trung thành, thống nhất như nhau. Tưởng  cũng chẳng thứa khi chúng ta  biết thêm một thí dụ nữa là  về vị nhạc sư Nguyễn Quang Đại (  miền Nam gọi thân mật là Thầy Ba Đợi), vốn là một nhạc quan triều đình nhà Nguyễn, chạy tránh loạn vào nam sáng tác các bài bản được cho là  các bản Tổ củaNhạc Lễ và  nhạc tài tử Nam Bộ, dựa vào  tiêu chuẩn của hệ thống  nhạc cung đình Huế  và ca Huế trong dân gian. Vì thế tuy nghe tựa đền  bài  hát  không khác với Ca Huế  hay nhạc cung đình như Lưu Thủy, Cổ bản Kiêm Tiền, Phú Lục, trong hệ thống “Ba Nam, sáu Bắc, Bảy bài”, hay “Tám bản Ngự’.v..v…nhưng khi nghe thì khác xa nhau hoàn toàn.( Long vị của ông Ba Đợi thờ tại  đình Vạn Phước, xã Mỹ Lệ huyện Cần Đước tỉnh long An: “Phụng sự quá vãng Nguyễn Quang Đại nhứt vị chi linh- Hoàng triều nhạc sư- Nam Bộ đại nhạc tông” ).

4- Tổng Luận

 Như vậy, con người và văn hóa đất Bình Định, trong đó có  tinh thần chân lý như thị của Phật giáo đóng góp rất lớn, đem nhiều lợi lạc cho cuộc sống hôm nay và cả đến mai sau. Có những  con người, những vấn đề vì  nhiều nguyên do khách quan nào đấy , còn đang chờ đợi nhân duyên tác hợp để củng cố và tăng cường cho sức mạnh  Phật giáo cũng như con người   Bình Định. Ai trong chúng ta cũng đều có  chung một niềm tin như thế vì đó là một niềm tin chánh đáng , và trên hết  bằng tinh thần yêu  truyền thống dân tộc thiết tha, , nhất định  một tương lai tươi sáng sẽ sẵn chờ đón  phía trước.

 

Kính chúc Hội Thảo thành công tốt đẹp.

 

Sài gòn , tháng 6/ 2018

Dương Kinh Thành

( Trung tâm Nghiên Cứu  Phật Giáo Việt Nam)

 

 

 

 

Các chú thích:

1)      Trích văn Hóa và con người Bình Định.

2)      Trích Danh Tăng Việt Nam-NXB Tôn Giáo 2017-Đồng Bổn chủ biên.

-          Lược Khào Phật Giáo Sử VN- Vân Thanh- VHĐ ấn hành 1974.

-          Lịch sử Phật giáo Đàng trong- Nguyễn Hiền Đức- Tập I-NXB thành Phố 1996

3)      Theo Hát Bội Bình Định-Văn Hoc Nghệ Thuật-vanchuongviet.org.

Và các  bài viết chuyên đề Nghệ thuật sân khấu Phật giáo của  tác giả đăng trong các tạp chí và Tập Văn BVNTW/GHPGVN số 41/ NXB TP.HCM 1998.

______

* Bài liên quan:

 

Hàn Mặc Tử và Thơ Phật Giáo (Cư Sĩ Trí Bửu)

Phật Giáo và con người đất Bình Đinh (Cư Sĩ Dương Kinh Thành)

  Sự Đóng Góp của Chư Tăng Bình Bịnh .... (TT TS Thích Hạnh Bình)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/01/2024(Xem: 1769)
Mời các bạn chiêm nghiệm nhưng danh ngôn để biết vị Thầy tốt nhất của mình bạn nhé! -“Cuộc sống là một chuỗi trải nghiệm, mỗi trải nghiệm lại giúp ta lớn lao hơn, dù đôi khi khó nhận ra điều này. Bởi thế giới được dựng lên để phát triển bản lĩnh và ta phải học được rằng những bước lùi và nỗi đau ta phải chịu đựng giúp ta tiến về phía trước." - Henry Ford -“Bạn phải sống trong hiện tại, ném mình lên từng con sóng, đi tìm sự vĩnh hằng trong từng khoảnh khắc." - Henry David Thoreau -“Chúng ta không học được từ trải nghiệm… chúng ta học được từ việc suy ngẫm lại về trải nghiệm." - John Dewey -“Sự tương tác giữa tri thức và kỹ năng với trải nghiệm là chìa khóa của việc học hỏi." - John Dewey -“Hối tiếc trải nghiệm của bản thân là ngăn chặn sự phát triển của chính mình. Phủ nhận trải nghiệm của bản thân là thì thầm lời nói dối trên môi cuộc đời của chính mình. Điều đó không gì khác chính là phủ nhận tâm hồn mình." - Oscar Wilde -“ Nguồn tri thức duy nhất là kinh nghiệm - Al
10/01/2024(Xem: 4918)
Tôi bắt đầu dịch thơ của Thầy Tuệ Sỹ vì khâm phục đức độ và lòng dũng cảm của Thầy. Khi nhận được những góp ý từ những người hâm mộ thơ Thầy là bài dịch của tôi giúp họ hiểu thơ Thầy hơn, thì khi đó tôi mong muốn dịch toàn bộ các bài thơ của Thầy sang tiếng Anh. Cuốn sách này được viết vì cái mong muốn này đã lớn thành cái đam mê. Có dịch thơ của Thầy, tôi mới thấy rất rõ ràng những bài thơ của Thầy là một cống hiến to lớn không chỉ cho văn hóa Việt Nam mà còn cho Phật giáo thế giới. Thầy đã đem Thiền vào thơ bằng ngôn ngữ của một con suối, một hạt cải hay hai kẻ yêu nhau. Sự trừu tượng hóa này khiến cho rất khó hiểu được thơ Thầy. Nhiều bài, tôi phải suy nghĩ cả ngày, đôi khi cả mấy ngày, mới hiểu ẩn ý của Thầy. Công việc này không đam mê không làm được.
07/01/2024(Xem: 1609)
Nước Việt trải qua hàng ngàn năm hình thành và phát triển, ban đầu chỉ là vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ, dần dần tiến về Nam sáp nhập nhiều phần lãnh thổ khác để có được diện mạo như hôm nay. Quá trình phát triển ấy cũng nhiều thăng trầm nghiệt ngã, có lúc tưởng như diệt vong nhưng rồi laị phục hồi và phát triển trở laị. Nước Việt chịu nhiều ảnh hưởng của các nền văn hoá: Trung Hoa, Ấn, Champa, Khme, Pháp, Mỹ…Ngay từ thuở ban đầu chỉ là thời đaị bộ lạc, bộ tộc. Tộc Việt cũng đã có một nền văn hoá riêng, tiếng nói riêng:
03/01/2024(Xem: 5598)
Nguyệt San Chánh Pháp số 145_tháng 12 năm 2023: Tâm chí nhỏ thì nhìn cuộc đời trong phạm vi trăm năm, thấy mục đích sống trong vòng gia đình, xã hội, tôn giáo, quốc gia. Tâm chí rộng hơn thì hướng đến lợi ích của nhân loại, của thế giới, trong hiện tại và nhiều thập niên hay thế kỷ tương lai.Giới hạn nhỏ, lớn là ở nơi không gian và thời gian. Mục tiêu nhỏ, lớn thì đặt nơi lợi ích của cá nhân hay số đông. Nhưng dù ngắn hạn hay dài hạn, con đường tất yếu của đời sống nhân loại là giáo dục. Con đường của Phật giáo ở cuộc đời này cũng không ngoài lãnh vực giáo dục, thuật ngữ thiền môn gọi là giáo hóa, hóa độ, hoằng pháp.
03/01/2024(Xem: 6440)
Bậc chân tu thực chứng thì bước đi không để lại dấu vết. Có nghĩa là không lưu lại dấu vết hay tì vết gì trong tâm thức và hành xử của mình, như được nói trong kinh “Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng” [1]. Tu mà không chấp nơi việc tu của mình mới thật là chân tu; chứng đắc mà không chấp nơi sở đắc của mình mới thật là chứng đắc. Đó là nói sở tri, sở hành, sở chứng của vị ấy trong việc tu tập, hành đạo; chứ trên thực tế, thân giáo và ngữ giáo của bậc tuệ đức để lại vô số kỳ tích và ấn tượng sâu đậm cho những ai được thân cận, học hỏi, thọ pháp. Hòa thượng Tuệ Sỹ là một nhà tu, một con người nhẹ nhàng đi qua cuộc đời như thế.
05/12/2023(Xem: 4368)
Hôm qua chủ nhật, 5.12 là sinh nhật Thầy, nhìn hình ảnh mẹ Tâm Thái tiễn Thầy ra phi trường trở về Úc trong không khí thật vui cùng mọi người đưa tiễn. Mẹ Tâm Thái ngồi bên Thầy với bộ quần áo màu vàng nhạt, bên ly cà phê sữa đá. Rồi cả nhà chụp hình làm kỷ niệm. Thầy khoác đôi bờ vai Mẹ, nắm cánh tay Mẹ như nói rằng: "Mẹ ơi, rồi con sẽ về thăm Mẹ, con luôn bên Mẹ, Mẹ giữ gìn sức khỏe cho chúng con".
30/10/2023(Xem: 1951)
Nhân loại cách đây khoảng vài triệu năm sống trong Thời Kỳ Đồ Đá (Stone Age). Đánh nhau chỉ ném đá, chắc chỉ bị thương và chết chẳng bao nhiêu. Rồi từ từ tiến lên Thời Đại Đồ Đồng (Bronze Age). Mũi giáo, mũi tên được chế bằng đồng, chắc đánh nhau chết khá nhiều. Rồi bắt đầu văn minh tiến vào Thời Kỳ Đồ Sắt (Iron Age) gươm, đao, cung nỏ đều bằng sắt, đánh nhau chết khá bộn. Rồi càng văn minh hơn nữa chế ra thuốc nổ, bắt đầu có súng, lựu đạn, bom, mìn. Đệ I Thế Chiến chết hơn 10 triệu người. Đệ II Thế Chiến chết khoảng 50 triệu người. Chỉ riêng hai trái bom nguyên tử bỏ xuống Hiroshima và Nagasaki đã giết khoảng 100,000 người.
19/09/2023(Xem: 4104)
Kính bạch Chư Tôn Đức Tăng, Ni, Kính thưa Quý Thiện Trí Thức Phật Tử và Văn Nghệ Sĩ, Để tri ân những đóng góp của một bậc cao Tăng thạc đức trong dòng sống của Dân tộc và Phật giáo Việt Nam suốt hơn 60 năm đầy biến cố vừa qua, chúng con (chúng tôi) đang chuẩn bị phát hành Kỷ Yếu Tri Ân Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ. Qua lá thư này, chúng con (chúng tôi) xin thành tâm kính mời Chư Tôn Đức Tăng, Ni cùng Quý Thiện Trí Thức Phật Tử và Văn Nghệ Sĩ đóng góp vào tác phẩm có giá trị rất đặc biệt này. Chúng con (chúng tôi) thành thật xin lỗi trước nhưng yếu tố thời gian sẽ ảnh hưởng quan trọng đến việc phát hành. Kỷ Yếu Tri Ân Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ sẽ được phát hành trong vòng một tháng kể từ hôm nay 17 tháng 9, 2023. Bài viết xin gởi đến Ban Báo Chí & Xuất Bản thuộc Hội Đồng Hoằng Pháp GHPGVNTN tại địa chỉ email [email protected]. 🌹🥀🌷🍀🌷🌸🏵️🌻🙏🙏🙏🌼🍁🌺🍀🌹🥀🌷🌸🏵️
15/09/2023(Xem: 8985)
Như đã trình bày ban đầu, chương trình Học Phật Trong Mùa Đại Dịch là phần ôn lại một loạt kinh được tụng và giảng vào lúc Dịch Covid 19 bùng phát và lan tràn khắp thế giới, tức vào đầu tháng Hai năm 2020, do chùa chiền bị đóng cửa hoặc hạn chế sinh hoạt nên Đạo Tràng của chúng ta đành phải sinh hoạt qua mạng internet, với lập trình Zoom. Cho đến sau Hè 2022 chúng ta mới trở lại sinh hoạt bình thường ở chùa. Để mở đầu cho chương trình ôn tập này, chúng ta đã học xong bài Kinh Châu Báu, tiếp đến là bài Kinh Phổ Môn mà Nhật Duyệt hân hạnh xin trình bày lại cùng các bạn đồng tu trong Đạo Tràng An Lạc, chùa Trúc Lâm Paris, cũng như toàn thể các độc giả bốn phương.
12/09/2023(Xem: 1633)
Cõi thơ của Thầy Tuệ Sỹ mênh mông bát ngát. Cao thì bay vút từng không. Sâu thì hun hút hố thẳm. Biết đâu mà dò để gọi là theo! Với người viết bài này, có lẽ là ngồi bệt xuống đất nhìn trừng trừng vào mấy dấu lặng trên “Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm” của Thầy để mà nghe, có thể chỉ như là “vịt nghe sấm,” nhưng, may ra còn nghe được vài khoảng lặng vô thanh đâu đó, sau những cung bậc du dương siêu thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]