Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Vô Thường

10/05/201817:14(Xem: 3946)
Vô Thường

 
hoa sen 2a



VÔ THƯỜNG

 


Những biến động đàn áp Phật Giáo khởi đầu vào năm 63. Lúc ấy tôi cũng vừa tròn 13 tuổi. Cái tuổi của thắt nơ tóc bím đầy thơ mộng. Thì cũng chính vào những năm tháng thơ mộng nhất của đời tôi, tôi lại trực nhận rõ rằng cuộc đời quả là khổ, quả là vô thường !

 

Lần trở về quá khứ của 33 năm về trước…

Một buổi sớm mai, trời chưa sáng hẳn, khoảng chừng bốn giờ sáng, đang ngủ ngon giấc, tôi choàng thức dậy vì tiếng ồn ào xôn xao trong nhà. Đèn bật sáng. Các anh chị em tôi ai cũng lần lượt nhảy ra khỏi giường, nhốn nháo, ngơ ngác…Chuyện gì thế ? Cha mẹ tôi, khuôn mặt lo âu, nhỏ to điều gì tôi không nghe rõ.

 

Tiếng đập cửa dồn dập. Người quản gia già hốt hoảng chạy tìm cha tôi : « Thưa ông, có mấy ông công an cảnh sát đòi vào nhà !»

Cha tôi nói vài câu gì rồi thì người quản gia vội vàng đi mở cửa, mời các ông…kẹ kia vào nhà.

Tôi còn nhớ rõ, lúc ấy cha tôi đang còn mặc bộ quần áo ngủ. Sau khi tiếp chuyện khoảng năm mười phút với họ, cha tôi lên phòng thay quần áo chỉnh tề, nhắn nhủ đôi lời với mẹ, không nói năng gì với chúng tôi, chỉ ngước mắt nhìn chúng tôi rất nhanh rồi đi theo mấy ông công an cảnh sát kia.

 

Anh chị em chúng tôi chỉ đứng thấp thó đằng sau để quan sát. Mẹ tôi thì theo chân cha tôi cho đến tận cửa. Cha tôi quay lại, tháo đồng hồ đeo tay đưa cho mẹ, lẳng lặng bước ra khỏi nhà, hai ông công an kèm hai bên.

Chúng tôi nhao nháo chạy ù ra nơi cửa sổ, ngoái nhìn cha tôi leo lên chiếc xe được che kín hết các cửa sổ, chúng tôi gọi những chiếc xe mà công an dùng để đi bắt người là xe « bít bùng ».

Chúng tôi dõi mắt nhìn theo cho đến khi chiếc xe khuất dần. Mặt trời cũng bắt đầu ló dạng. Và tim tôi cũng đập từng hồi. Lần đầu tiên trong đời tôi biết thế nào là lo và sợ.

 

Khuôn mặt lạnh lùng của mấy ông công an. Nỗi lo âu trên khuôn mặt của cha, của mẹ. Tất cả mọi hình ảnh hằn lên trong trí nhớ.

Trước sự việc vừa xảy ra, anh chị em chúng tôi ngơ ngác như nai lạc đàn. Mẹ tôi cố gắng bình tĩnh, không nói gì nhiều, chỉ khuyên chúng tôi trở về giường ngủ, sáng còn phải dậy lo đi học.

Chúng tôi ngoan ngoãn nghe lời mẹ, không dám hỏi han gì nhiều. Nhưng chắc chắn làm sao mà chúng tôi có thể chớp mắt, tiếp tục ngủ lại được.

 

Sáng hôm đó chúng tôi vẫn đi học bình thường như chẳng có chuyện gì xảy ra, trong khi đó thì một biến cố quan trọng vừa xảy đến với chúng tôi, cha chúng tôi vừa mới bị công an bắt đi trên chiếc xe bít bùng !

Chúng tôi đến trường với tâm tư nặng trĩu, những câu hỏi dồn dập trong trí óc : cha sẽ bị nhốt ở đâu, có bị tra tấn hành hạ không, sẽ còn sống sót hay bị thủ tiêu, có được thả về không, rồi mẹ, mẹ làm sao sống với bầy con mười một đứa ?

 

Thế rồi nhiều tháng trời đã trôi qua. Không một tin tức gì về cha tôi. Không một ai biết gì. Mẹ tôi hoàn toàn không một lần được gặp cha. Không biết ờ đâu mà tìm. Đi hỏi chỗ này họ chuyền chỗ kia. Đi chỗ kia họ chuyền chỗ nọ. Cứ thế mãi. Đồ ăn, đồ dùng, quần áo, mẹ tôi vẫn gói xách theo nhưng có biết tới tay cha ?

 

Mẹ ốm o, gầy gò và già hẳn ra. Anh chị em chúng tôi cũng lo ra, lơ là việc học.

Ôi cái năm 63 quả là cái năm của hoạn nạn sóng gió !

Phật Giáo Việt Nam chịu bao điều khổ hạnh, tang tóc. Những cuộc tự thiêu nối tiếp. Lửa, máu và nước mắt. Những trái tim Bồ Tát vẫn không đủ để xoa dịu nỗi khổ đau của người phật tử thời đó.

 

Mẹ tôi bôn ba chạy ngược chạy xuôi vẫn không một lần gặp được cha. Một ngày trôî đi là một ngày sống trong lo âu, hồi hộp và sợ hãi.

 

Biến động bên trong, biến động bên ngoài càng ngày càng dữ dội. Để trấn an tinh thần, chị thứ ba của chúng tôi, tụ họp chúng tôi mỗi tối để tụng kinh cầu nguyện đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Lần đầu tiên trong đời tôi được biết danh hiệu của vị Bồ Tát này và từ đó Ngài không bao giờ rời tôi, hay nói cho đứng phần cung kính thì tôi chẳng bao giờ rời Ngài. Bởi suốt cả cuộc đời ba chìm bảy nổi của tôi, nếu không có bàn tay cứu độ của Ngài, chắc tánh mạng tôi cũng tiêu vong từ lâu. Vị Bồ Tát này quả đúng như lời Phật dạy trong kinh điển : « Ngài có nhân duyên rất lớn đối với chúng sinh »

 

Tôi không còn nhớ rõ cha tôi bị cầm tù bao lâu nữa nhưng tôi nhớ rõ hnìh ảnh mẹ tôi lúc bấy giờ. Dù khó khăn, lo âu như thế nào, mẹ vẫn can đảm, bình tỉnh để quán xuyến mọi việc. Anh chị em chúng tôi vẫn sống bình thường không hề thiếu thốn, việc học không bị gián đoạn, trừ những ngày có biểu tình lớn, những vụ xuống đường, tự thiêu, những ngày không có an ninh.

 

Có lẽ bấy giờ, dù còn bé, không hiểu nhiều, nhưng nhịp tim của chúng tôi cũng đập theo phong trào tranh đấu Phật Giáo và cũng hiểu được lý do của sự bắt bớ cha tôi, nên tinh thần của mẹ và của anh chị em chúng tôi đều vững vàng. Bởi cùng hướng về một mục đích lớn lao và cao cả, chúng tôi đều cảm tưởng như có một sức mạnh vô hình nào đó đã nâng chúng tôi lên và sẽ che chở chúng tôi để vượt qua mọi khó khăn, đau khổ.

 

Thế rồi mọi khó khăn đau khổ cũng được đền bù.

Gia đình họ Ngô bị ám sát. Chế độ nhà Ngô bị lật đổ. Chỉ ít ngày sau đó thì cha tôi cũng được ra tù.

 

Khi cha tôi vừa bước chân tới nhà thì người ở đâu mà ùn ùn xông đến đầy nghẹt cả sân. Nào bà con, hàng xóm, láng giềng, nào cả bệnh nhân, thân chủ của cha tôi, nào cả những bác đạp xích lô, chị bán bánh bèo, mụ bán chè, o bán bún !

Những bàn tay nắm chặt, những nụ cười, những giọt nước mắt chan hòa tình nghĩa. Tôi không ngờ cha tôi được mọi người thương quí đến mức đó.

Tôi cũng thấy mắt mình mờ đi vì lệ, nửa sung sướng, nửa hãnh diện làm sao !

 

Sau khi đã trải qua những khổ riêng cũng như Pháp nạn chung, lúc bấy giờ gia đình chúng tôi lại sum họp. Những ngày u tối, vợ không chồng, cha không con đã chấm dứt. Ánh sánh hạnh phúc đã trở lại soi sáng căn nhà ấm cúng. Bầy con đông đúc bao quanh hai bậc cha mẹ thật khả kính. Chẳng trách về sau, tôi lập gia đình cũng chỉ mơ tưởng lập lại hình ảnh một gia đình đông con vui nhộn, cha mẹ yêu thương, hiền hòa, gương mẫu !

 

Cũng từ biến cố Phật Giáo này mà sẽ tiếp diễn những đổi thay lớn trong đời cha tôi và của cả chúng tôi.

 

Khi tướng Dương Văn Minh lên nắm chính quyền thì cha tôi được mời ra tham chính. Là đấng trượng phu quân tử, luôn thao thức với con ngưòi và đất nước, làm sao mà cha tôi có thể từ chối trách nhiệm phải gánh vác vận nước khi cần.

Nhưng vận nước thời bấy giờ thì lao đao và bấp bênh như thuyền không người lái giữa đại dương bát ngát !

 

Cha tôi ra tham gia chính trường được một năm thì tướng Nguyễn Cao Kỳ lên nắm chính quyền. Tướng này, chắc lo ngại ảnh hưởng của cha tôi, không lợi cho ông ta hay vì những xuyên tạc không đúng sự thực về cha tôi nên đã bắt cha tôi cầm tù.

Thế là chúng tôi lại một lần nữa lo âu khổ sở.

Nhưng lần này thì nhanh hơn lần bị cầm tù thời Đàn áp Phật giáo. Cha tôi được thả tự do ở Sàigòn. Mất hết tất cả chức vị. Sự nghiệp hầu như tiêu tan. Cũng chỉ vì lao theo vận nước.

Sau vụ bắt bớ này thì cha tôi định cư ở Sàigòn, không trở về Huế nữa, nơi mà cha tôi đã tạo dựng sự nghiệp và tên tuổi, từ Giám đốc Bệnh Viện Trung Ương Huế cho đến Giám đốc Trường Cán Sự Điều Dưỡng, đào tạo các cán sự y tế, Khoa trưởng Đại Học Y Khoa Huế, vị khoa trưởng đầu tiên. Phòng mạch của cha tôi thì lúc nào cũng đông nghẹt bệnh nhân, mỗi ngày cha tôi chỉ có biết làm việc, từ sáng sớm tới chiều tối. Nhưng tính tình lúc nào cũng vui vẻ, giản dị nên đuợc mọi người yêu quí. Cha tôi lại cũng rất thích đá banh nên đã lập ra đội cầu thủ « Ngôi Sao Y Tế », nhờ đó, hồi nhỏ, anh chị em chúng tôi cũng thường được xem đá banh. Ngoài ra cha tôi còn là chủ nhiệm tờ báo « Lành Mạnh » vì ông cũng vốn rất thích văn chuơng thơ phú, ngoài những bài vở liên quan đến y học, thường vẫn có nhưng trang thơ, văn của nhiều thi sĩ thời đó mà tôi còn nhớ tên như Quách Tấn, Trụ Vũ…Tôi luôn là độc giả tí hon, trung thành với báo Lành Mạnh, mục gì tôi cũng « ngấu nghiến, ghiền gẫm » không bỏ sót dù chẳng hiểu hết. Tuy làm việc rất nhiều nhưng cha tôi cũng thích chơi đùa với con cái, ông thường hay đặt một đề tài gì đó và biểu anh chị em chúng tôi hoặc làm thơ, hoặc viết văn và ông sung sướng đọc rồi cười thích thú.

Vào dịp sinh nhật của một thành viên nào trong gia đình thì anh chị em chúng tôi thường làm một buổi văn nghệ, có sân khấu hẳn hòi trong nhà, đứa hát, đứa múa, đứa đóng kịch, đứa làm hề, đứa đàn piano…và cha mẹ tôi luôn luôn tham dự một cách trịnh trọng.

 

Mẹ tôi đúng là phẩm chất của một phu nhân mà tôi nghĩ người đàn ông nào muốn có sự nghiệp đều ao ước. Đầy đủ công dung ngôn hạnh, đảm đang quán xuyến gia đình, lại xinh đẹp và có tài, biết chơi đàn, cốt cách thanh lịch, thông minh, nói được cả tiếng Pháp và tiếng Anh. Không những thế lại còn sát cánh với cha tôi. Khi cha tôi soạn thảo cuốn Danh Từ Y Học thì mẹ cũng bên cạnh, dù chỉ là sắp xếp giấy tờ, tài liệu cho đâu vào đó, gọn gàng, dễ tìm dễ thấy, điều đó cũng lợi cho cha nhiều lắm, không mất thì giờ vào những chuyện lặt vặt.

 

Nhưng làm gì có một hạnh phúc hoàn hảo và thường còn trên cõi đời này nhỉ !

 

Thế là vào năm 65, gia đình tôi định cư ở Sàigòn. Mất hết tất cả sự nghiệp gầy dựng hơn bốn mươi năm ở Huế, cha tôi mở phòng mạch, làm lại cuộc đời từ số không, như một bác sĩ mới hành nghề. Nhưng rồi cha tôi cũng trở lại địa vị xứng đáng với tài năng và đức độ của mình. Cha tôi đảm nhận điều hành bệnh viện Sùng Chính ở Sàigòn, cuộc sống được bình thưòng hóa thêm mười năm thì một biến cố khác của đất nước lại xảy đến, thêm một lần nữa cuộc đời cha tôi cũng chao đảo theo.

 

Năm 75 dồn dập đến thật bất ngờ, không ai chờ đợi, không ai mong muốn cả. Đúng là biển dâu. Mọi sự xoay chiều đổi hướng, xã hội đảo lộn, vật đổi sao dời, giàu thành nghèo, nghèo bỗng hóa giàu, tự dưng đâu mà có nhà có cửa có đất có đai, bỗng chốc đâu mà mất hết của cải và cả người thân, người mất mát, người được hết, người được làm, người không được làm gì hết, người được quyền, người bị tước quyền, người được học, người không cho học, người dốt thì dạy lại ngưòi giỏi…Bao nhiêu điều trớ trêu ngang trái, nói không kể xiết.

 

Tôi không là nạn nhân của cuộc biển dâu, cũng chẳng chứng kiến gì vì tôi đã ở một phương trời khác xa xôi, tôi chỉ được nghe, thuật lại từ ngưòi thân, quen chung quanh tôi nhưng cũng đau lòng lắm thay !

 

Năm 78 cha tôi vĩnh viễn ra đi. Chỉ mới 63 tuổi. Có lẽ cũng quá mỏi mệt với những biến cố dồn dập của đời mình.

Chỉ trong vòng vài năm ngắn ngủi mà một màu tang tóc phủ xuống gia đình tôi, bà nội, ông ngoại, bà ngoại tôi cũng lần lượt ra đi.

Tôi không thể ngờ đưọc lần từ giã ông bà cha mẹ để lên đường du học lại là lần đã nói lời vĩnh biệt, lần cuối cùng còn thấy nhau. Tôi chẳng bao giờ còn dịp gặp lại được những người thân quí nhất đời tôi.

 

Ôi vô thường là vô thường !

 

Riêng tôi, năm 65, khi gia đình đã dọn vào Sài gòn, tôi còn nấn ná xin ở lại Huế học cho hết trung học, ở nội trú bà xơ Jeanne D’Arc, sau khi đậu brevet thì phải nhảy qua học chương trình Việt, vì ở bà xơ không có lớp cao hơn theo chương trình Pháp. Vậy là tôi nhảy qua học liền tú tài phần một, đậu xong là vào Sài gòn, cha mẹ tôi không muốn tôi nấn ná thêm, quả đúng, tôi đã rời Huế kịp thời tránh được Mậu Thân thảm khốc. Biến cố này đã gây một vết thương quá ư nặng nề cho Huế, một vết thương mà vết sẹo không bao giờ lành. Nhưng thử hỏi có vết sẹo nào mà có thể lành lặn ?

 

Huế của tôi hiền hòa mà Huế của tôi cũng quá ư dữ dội !

 

Thôi thì hãy nói những gì hiền hòa trước. Nhắc đến Huế cũng là nhắc đến quãng đời thơ mộng nhất của tôi, tuy rằng Paris với tôi cũng thơ mộng không kém. Nếu phải có sự lựa chọn giữa Huế và Paris thì có lẽ trái tim tôi phải xẻ làm hai.

Biết bao thi nhân, văn nghệ sĩ đã rung động vì Huế, cũng như Paris. Nhưng thôi, hãy chỉ nói về Huế ở đây. Paris sẽ đề cập đến vào một dịp khác. Xin hứa với bạn đọc như thế nhé.

 

Huế có vẻ đẹp thầm lặng mà khó tìm thấy ở các nơi khác. Sinh trưởng và lớn lên ở Huế suốt 17 năm trời, với những trận mưa dai dẳng, những trưa hè gay gắt, những đêm đông lạnh buốt, dòng Hương trong xanh êm đềm hay gợn đục ngầu vàng của mùa bão lụt, tất cả những sương khí hồn thiêng của Huế như đã ngấm vào xương vào máu vào óc não. Làm sao quên được con đường đi vào Thành Nội, cổng Tam Quan, trường Quốc Gia Âm Nhạc, nơi đã nuôi dưỡng tôi với dòng nhạc ướt át tình cảm, ngôi trường Jeanne d’Arc ấm cúng như một mái gia đình, những chiều nội trú lặng lẽ đã ấp ủ biết bao vần thơ muôn điệu, hồ Tịnh Tâm với những búp sen hiền lành gợi bóng từ bi, cầu Tràng Tiền biết bao lần nối nhịp cho bước chân tôi đi qua và lớn lên thành cô thiếu nữ đầy ấp mộng mơ, biết bao bóng dáng thân yêu đã đi đã về đã khuất bóng bên dòng đời luân lưu, những cung điện, lăng tẩm còn hằn lên những gì bí ẩn, uẩn khuất nhất của lịch sử Việt Nam và cả cuộc đời, bao nhiêu triều đại vua chúa đã đi qua, những nỗi niềm trắc ẩn của cung phi mỹ nữ dường như vẫn còn nặng trĩu, những điệu Nam Bình, Nam Ai nghe mà não lòng đứt ruột.

Biết bao là hình ảnh, là âm thanh gợi nhớ những tháng năm dữ dội đầy sóng gió. Những cuộc biểu tình, xuống đường, hô hào đấu tranh, tuyệt thực, tự thiêu, những chiếc bàn thờ trên đường phố, những vụ bắt bớ, đêm khuya hoảng hốt, sợ hãi, lo âu, những đợt pháo kích, người tan xác, nhà cửa tường xiêu vách đổ, khói lửa thiêu cháy, cái hình ảnh ghê rợn của một Ngô Đình Cẩn bị xử bắn, những vết tích của bạo động, giết chóc, chiến tranh, khổ đau, nghèo đói đều hiện diện nơi Huế thâm trầm tĩnh lặng.

Ôi Huế mộng, Huế thơ và Huế tàn bạo !

Những oan hồn Mậu Thân vẫn còn vất vưởng lang thang đâu đó.

Huế cô hồn và Huế ma quái !

Huế linh thiêng và Huế siêu việt với những ngôi chùa Thiên Mụ, Thuyền Tôn, Bảo Quốc, Quốc Ân, Từ Hiếu, Diệu Đế…hay những nhà thờ trang nghiêm, nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, nhà thờ Phanxicô, nhà thờ Phủ Cam, nhà thờ Kim Long…

Tất cả đều cưu mang hồn của Huế, của người con Huế.

 

Khi tôi rời xa Huế là gần như mãi mãi rời xa Huế. Phải bốn mươi năm sau tôi mới trở lại. Tất cả chỉ là hoài niệm. Không thể tìm đâu ra Huế của một thời xa xưa. Tôi chợt hiểu chân lý : quê hương chỉ tồn tại trong tim ta. Thời gian và Vô thường đã cướp mất tất cả rồi. Đã cuốn theo muôn chiều gió, đã lùa ra tận biển cả, đã nhận chìm vào đáy sâu.

 

Nếu không vẽ một mảnh đất quê hương trên bản đồ của con tim thì cho dù có đi mãi đi hoài cũng không thề nào tìm ra quê hương vì quê hương là Vô Thường. Đất đai là thế. Nương dâu thành biển, biển thành nương dâu. Vận nước là thế, các triều đại nối tiếp, đổi thay lên xuống như nước thủy triều. Vua chúa, quan dân gì cũng thế, hôm nay còn thấy, ngày mai mất đâu. Gia đình, người thân, bạn bè cũng thế, hôm nay sum họp, ngày mai ly tán…

 

Những gì giữ lại trong tim, trong Tâm thì còn. Đừng đi tìm đâu nữa cả. Để rồi chỉ lại thấy bóng dáng của Vô thường luôn luôn chực sẳn. Một khi nó ló mặt ra thì mọi sự hầu như đã trễ tràng. Chỉ còn biết nói lời ly biệt !

Ôi Vô Thường ! Ta thật sự chán ghét mi !

 

 

                                                          Lê KhắcThanhHoài

                                                     Paris, Mùa Báo Hiếu 96

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/05/2018(Xem: 3886)
Như vậy là Thầy đã thực sự xa lìa cõi trần ai tục lụy nầy hơn một năm rồi mà hình như trong lòng con vẫn không thấy có sự gì thay đổi hay khác biệt giữa mất và còn cũng như xa với gần, lạ và quen…Bởi thế mà hôm nay con mới có bức thư này xin gởi đến Thầy. Con vẫn thấy như còn mãi đó, trước mắt con, dáng dấp của Thầy với chiếc cà sa màu vàng rực, bờ vai trần và nụ cười thật hiền hòa luôn nở trên môi, làm cho khuôn mặt của Thầy càng thêm rạng rỡ. Con xin nói rõ hơn, dù Thầy không còn nhưng những gì con đã học được từ Thầy, đã được đọc, được nghe, qua những bài giảng dạy, thuyết pháp, những bài báo, bài viết, bài dịch thuật, qua các công trình đóng góp đồ sộ của Thầy mà Thầy đã được trân trọng vinh danh như là ngài Huyền Trang của nước Việt mình, thì trong lòng con, hình ảnh Thầy vẫn mãi sống động, hiển hiện và không bao giờ mất cả.
28/04/2018(Xem: 14316)
Có thể nói: Cuộc đời của Bùi Giáng không thuộc về khái niệm trong ý nghĩa của sự sống chưa thoát khỏi những ranh giới định kiến phân biệt trần gian. Ở ông, hình như cái ranh giới mà tạm gọi là khùng điên và thiên tài không thể nào hiểu hết được. Nếu mượn những khái niệm thường tình: hèn- sang, nghèo- giàu, điên- tỉnh, ghét- yêu, buồn- vui…để Bùi Giáng, hện tượng của ý nghĩa sự sống vô tận, Thích Tâm Tôn, nói cái bất tận của cuộc đời Bùi Giáng thì chỉ là ý nghĩ ngây thơ cạn cợt. Thơ ông không phải để bàn, nhưng lạ thay, lâu nay người ta vẫn thích bàn và bàn chưa thể hết những gì thuộc về thơ của ông. Có lần ông bộc bạch, ông làm thơ đơn giản chỉ vì: “Thơ tôi làm ra là để tặng chuồn chuồn, châu chấu, xin các ngài học giả hãy xa lánh thơ tôi”. Xin mượn tạm chút ngôn ngữ của những khái niệm thường tình mà nói đôi dòng về ông trong ý nghĩa sự sống mà ông đã đi qua và đã lưu dấu lại trong cuộc đời này.
28/04/2018(Xem: 5662)
“Tấc Hơi Phụng Sự Còn Khiêm Tốn “Lòng Vẫn Cưu Mang Trải Kiếp nầy “Non Thẳm Ngàn Trùng Dâng Bất Tận “Nước Nguồn Đại Việt Ngọt Ngào Thay… Tôi hân hạnh được tiếp xúc với nhà văn Chu Tấn trong rất nhiều trường hợp, qua sự sinh hoạt với nhiều Hội đoàn, Đoàn thể trong cộng đồng người Việt tại miền Bắc California, kể cả các tổ chức Văn hoá, Chính trị, Xã hội v.v… nhất là trong Quân lực Việt Nam Cộng Hoà thuộc binh chủng Không Quân. Là một cựu Sĩ quan với cấp bậc Trung tá, bằng “Trách nhiệm, Danh dự, Tổ quốc”, mà Quê hương và Dân tộc Việt Nam, đang bịđoạđày dưới chếđộ bạo tàn Cộng sản Việt Nam .
26/04/2018(Xem: 3805)
Ngược dòng Mekong về hướng Thượng Lào. Nơi ngã ba sông Nam Khan chảy nhập vào dòng Mekong tạo nên một cảnh quang rất đặc trưng của cố đôLuangprabang cổ kính. Dòng sông với nhiều khúc quanh tạo nên những dãi uốn lượn có phần chảy xiết xuôi về hướng hạ Làokhiến con sông trông càng thêm đẹp. Nép dọc hai bờ, những rạng rừng núi nguyên sơ với những tàn cổ thụ rợp mát. Nhịp sống vẫn êm ả,sự thư thảcủa dân Lào có phần chậm lại vốn dĩ tạo nên nét rất đặc biệt nơi đây so với tất cả những danh thắng du lịch ở nơi khác. Và giữa rộn ràng của thói quen với những gì của thế giới hiện đại mà con người tiếp cận thường ngày, một quán Cà Phê trong không gian chỉ dành cho sự yên tĩnh của một người Pháp rất khéo ẩn dưới những bóng cây bên ghềnh đá của ngã ba con sông. Không có sự hiện diện của bất cứ một phương tiện nhộn nhịp nào của thế giới hiện đại được chào đón trong không gian mang tính thư giản này. Nơi ấy, không Wifi, không tiếng nhạc,hoạtđộng nhẹ nhàng của nhân viên phục vụ, chỉ có tiếng trải lòng
21/04/2018(Xem: 4832)
Nhớ Mãi Trong Đầu Một Chữ...Duyên (đôi dòng tướng nhớ Ninh)
21/04/2018(Xem: 6560)
Nhớ Thầy Là Nhớ Pháp, Kính dâng Hòa Thượng Thích Phước Đường, ( Bài của Nhật Duyệt Lê Khắc Thanh Hoài, do PT Diệu Danh diễn đọc)
21/04/2018(Xem: 12495)
Hoa Đàm Ngát Hương_HT Thích Bảo Lạc_2007
17/04/2018(Xem: 3544)
Qui thương mến, Dù biết cuộc đời là vô thường, nhưng chị vẫn bàng hoàng xúc động khi hay tin Qui đang bệnh nặng. Mấy hôm nay email của bạn bè và các em Sương Nguyệt Anh tới tấp gởi về, nhìn tấm hình Qui đang nằm mê man trên giường bịnh với ống dây chằng chịt mà xót xa cả lòng! Chị đã cầu an cho Qui mỗi ngày qua những thời kinh tụng niệm, mong Qui qua khỏi căn bệnh ngặt nghèo. Dậy đi qui ơi! Con người năng nổ hay làm việc thiện như em thế nào cũng qua khỏi cơn hoạn nạn. Chị tin như vậy!
17/04/2018(Xem: 2954)
Lá và cành khô đã gẫy đổ, giạt theo mặt hồ từ những ngày tàn xuân. Một số cành khác đã mục rữa từ dưới nước, nhưng vẫn gắng bám rễ nơi sình lầy, đong đưa những chiếc lá khô teo rúm cho đến khi thực sự bật gốc. Rồi một ngày, hai ngày, rồi nhiều ngày qua đi... khi nắng hạ oi ả nóng bức bắt đầu thiêu đốt những lá khô sót lại cuối mùa, những chồi xanh mơn mởn của lá sen vươn lên; từng lá, từng lá, mở ra tròn đầy, mạnh mẽ như thể đang chuẩn bị bảo vệ, chào đón sự xuất hiện phát tiết của những cành hoa. Và khi lá đủ lớn, màu trở nên xanh thẫm hơn, thì những nụ sen cũng vừa trồi khỏi mặt nước, đong đưa theo làn gió nhẹ trưa hè.
10/04/2018(Xem: 3505)
Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn, Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn Chữ bay từng cánh chim ngàn Mỗi câu là mỗi Niết bàn hóa thân. Xin phép được “tựa” vào hai câu thơ của cố Giáo sư Vũ Hoàng Chương, để bước vào thế giới văn chương của Văn Công Tuấn. Vì rằng, có lẽ, anh đã có nhiều duyên lành để dung thông với tư tưởng uyên áo của các bậc Thầy khả kính nơi ngôi trường Vạn Hạnh của ngày xưa Sài Gòn. Cũng như sau nầy có nhiều thuận duyên để tìm hiểu thêm về tư tưởng các danh nhân trên thế giới. Trong đó anh đã dành cảm tình đặc biệt với văn hào Hermann Hesse. Người đã được thừa hưởng “gia tài tâm linh” của một “ông lái đò” qua câu chuyện dòng sông. (“Khi dòng sông phẳng lặng thì bóng dáng chân như sẽ hiển bày”).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]