Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bùi Giáng, hiện tượng của ý nghĩa sự sống vô tận

28/04/201815:30(Xem: 14677)
Bùi Giáng, hiện tượng của ý nghĩa sự sống vô tận


Bui Giang 2

BÙI GIÁNG

HIỆN TƯỢNG CỦA Ý NGHĨA SỰ SỐNG VÔ TẬN
Thích Tâm Tôn

 

Có thể nói: Cuộc đời của Bùi Giáng không thuộc về khái niệm trong ý nghĩa của sự sống chưa thoát khỏi những ranh giới định kiến phân biệt trần gian. Ở ông, hình như cái ranh giới mà tạm gọi là khùng điên và thiên tài không thể nào hiểu hết được. Nếu mượn những khái niệm thường tình: hèn- sang, nghèo- giàu, điên- tỉnh, ghét- yêu, buồn- vui…để nói cái bất tận của cuộc đời Bùi Giáng thì chỉ là ý nghĩ ngây thơ cạn cợt. Thơ ông không phải để bàn, nhưng lạ thay, lâu nay người ta vẫn thích bàn và bàn chưa thể hết những gì thuộc về thơ của ông. Có lần ông bộc bạch, ông làm thơ đơn giản chỉ vì: “Thơ tôi làm ra là để tặng chuồn chuồn, châu chấu, xin các ngài học giả hãy xa lánh thơ tôi”. Xin mượn tạm chút ngôn ngữ của những khái niệm thường tình mà nói đôi dòng về ông trong ý nghĩa sự sống mà ông đã đi qua và đã lưu dấu lại trong cuộc đời này.

Không biết ông đi lạc vào kiếp sống của con người với mục đích gì hay chỉ để rong chơi dưới hình thức Bùi Bê Bối như vậy. Cái hình thức muôn mầu mà nhiều thập kỉ ông sống như cuộc đời khất sĩ, chân đất, túi vải rong chơi mọi nẻo đường, nghêu ngao ca hát, làm thơ, vẽ tranh, ứng xử với đời quá ư thiên tài và cũng không thiếu điều khùng điên kì lạ. Kì lạ bởi lẻ: “Giả danh chân đế cũng rồi/ Giả danh tục đế đẩy lời cũng qua.”

Nhưng từ ông, từ cuộc sống khó hiểu bởi những cái gọi là “giả danh” đó đã có những ảnh hưởng không thể tưởng tượng trong ý thức tư duy của không biết bao nhiêu tri thức đương thời. Cái hình thức của ông, người ta không định nghĩa được bằng ngôn ngữ. Và đối với ông, cái thứ ngôn ngữ ấy cũng chỉ là phương tiện để nghêu ngao thỏa chí với cuộc đời mà thôi. Không hiểu được bởi lẻ tư duy con người quá giới hạn, trong khi ông sống với cuộc đời bất tận mà không hệ lụy bất cứ một giới hạn nào theo tư tưởng Đại thừa. Nói theo Nhà Vật lí học về học thuyết Đơn Giản Einstein là: “Không giải thích được vấn đề, đơn giản chỉ vì không hiểu đủ rõ vấn đề mà thôi”. Vì không lĩnh hội được sự xuất hiện dị kì của ông giữa chốn trần quá bình thường này, nên mọi người gọi ông với không biết bao nhiêu tên gọi. Và hình như chính ông cũng chẳng muốn xác định sự hiện hữu của mình với cuộc đời này trong một thân phận bị gán ghép với tên gọi cố định nào. Tất cả những biệt danh như: Lão thi sĩ ăn xin, Đười ươi thi sĩ, Bùi tiên sinh, Trung Niên Thi Sĩ… cùng hàng loạt biệt danh trào lộng khác như:  Bùi Bán Dùi, Bùi Bàn Dúi, Bùi Tồn Lưu, Bùi Tồn Lê, Bùi Bê Bối, Bùi Văn Chiêu Lỳ, Brigitte Giáng, Giáng Monroe,... đã nói lên tất cả điều đó.

Bùi Giáng có lần tự họa bản thân mình với cái tự tại thong dong vượt khỏi những giới hạn tựa như mất kiểm soát: “Nhe răng cười trong bóng tối... không bao giờ bắt chuồn chuồn mà cứ bảo rằng mình luôn luôn bắt chuồn chuồn... Không thiết chi đọc sách mà vẫn cặm cụi đọc sách hoài... Chán chường thi ca mà cứ làm thơ hoài... Chuốc sầu vạn đại thì bảo rằng mua vui cũng được một vài trống canh”.

Và đó là cái mà ông cho là chiêm bao với cuộc đời đầy ảo mộng này:

“Kể từ khởi sự mọc răng

Đến bây giờ vẫn thường hằng chiêm bao.”

Cái thứ chiêm bao không thường tình chút nào. Đời mộng hay ông mộng?

“Tôi về giữ mộng mù khơi
Kết thành viễn tượng cho đời chiêm bao”

Đó không hiểu là cái nhìn cuộc đời từ khía cạnh của tâm kẻ say mộng, hay là từ tâm của bậc đã thật sự thoát mộng hoàn toàn?

Bùi Giáng nói thật như đùa, nói đùa mà như thật. Không biết chỉ là lời đùa vui hay là lời tỏ bày chân thật nhất về cuộc đời mình, mà chính lời tự giới thiệu bằng thơ sau đây của ông nói lên rất rõ sự thể nhập tư tưởng giải thoát của ông về thế giới bằng những “ từ ngữ tư tưởng Đại thừa”:

“Hỏi tên? Rằng biển xanh dâu,

Hỏi quê? Rằng mộng ban đầu rất xa,

Gọi tên là một hai ba,

Đếm là diệu tưởng, đo là nghi tâm.”

“Một hai ba (Nhất thừa, Nhị thừa, Tam thừa)”, “Diệu Tướng”, “Nghi Tâm”; tất cả đều là từ ngữ của tư tưởng Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Có lẽ Bùi Giáng xuất hiện dưới hình bóng của Gã Cùng Tử trong kinh Pháp Hoa là sự lưu xuất của tư tưởng này. Cái Gã Cùng Tử này không phải hiện đến trong nguyên thể của bản chất cái gọi là mang “nghiệp ăn xin” mà là sự đóng vai hiện xuất cho một tư tưởng sinh động kia vậy. Sự sống của ông không thể nào nhận ra được đâu giả, đâu thật.

Ông lang thang không phải miên man vào chốn bất tận của vô định, mà là sự lang thang của trở về với hình thức giả lập. Bùi Giáng thấm nhuần tinh thần này, và thể hiện tinh thần đó bằng chính cả cuộc đời ông như là sự “phụng hiến” hay “cúng dường” để thức giác cái bản lai vốn có của tất cả chúng sinh. Ông đi trong dáng dấp của kẻ cùng tử, như mượn hình tướng rách rưởi, lượm thượm, nhớp nhơ để biểu hiện ra tinh thần bất khinh của Bồ Tát. Và điều đó hoàn toàn không phải là sự khinh miệt cuộc đời thường tình theo cái kiểu “bất mãn năm trần”, mà là sự khơi dậy cái thể tánh trong hình thức giả tướng của ông .

Thông thường, trong tư tưởng kẻ chán đời thì sống theo lối “nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi” để cho đời chán họ. Ngược lại, Bùi Giáng sống có vẻ thoát ra bên ngoài hình tướng thô chán nhưng lại đi vào đời bằng bao điều thú vị của sự sâu lắng huyền bí sâu thẳm bên trong. Và đó chính là tình yêu của ông dành cho cuộc đời này. Một sự trân trọng cuộc sống hơn gì hết.Chính ông cũng đã thổ lộ quan niệm về sự sống như thế này: “Chúng ta dường như quên mất rằng mỗi người chỉ có một cuộc sống thật xinh, và cuộc sống đó rất có thể bị những thứ tai hại trong hồn ta làm cho méo mó đi… Tiếc sao! Tiếc sao! Một sự sống quá đơn sơ, chúng ta cứ đời đời quên bẵng”.

Và cái nhìn cuộc đời bằng tư tưởng tươi đẹp, sáng ngời; trái ngược với hình thức bụi bặm và đen tối của ông cũng được thấy rõ qua bài thơ Phụng Hiến:

 

“…Cây và cối bầu trời và mặt đất
Đã nhìn tôi dưới sương sớm trăng khuya
Mở buồng phổi đón gió bay bát ngát
Dừng bên sông bến cát buổi chia lìa

Hoàng hôn xuống, bình minh lên nhịp nhịp
Ngàn sao xanh lùi bước trước vừng hồng
Ngày rực rỡ đêm êm đềm kế tiếp
Đón chào tôi chung cười khóc bao lần"

Tôi đã gửi hồn tôi biết mấy bận
Cho mây xa cho tơ liễu ở gần
Tôi đã đặt trong bàn tay vạn vật
Quả tim mình nóng hối những chờ mong….”


bui-giangBui Giang 4Bui Giang 6Bui Giang 7

Tình yêu đó khiến ta liên tưởng, có thời gian ông trở về quê Quảng Nam mua 100 con dê và hằng ngày quẩy gậy ê a chăn dê để thỏa chí “hồn du mục”. Ông chăn dê đơn giản chỉ vì yêu dê, và yêu cuộc sống phiêu bồng chứ không gì khác. Thơ làm ra, ông xin tặng hết cho những sinh linh (dê con, chuồn chuồn, châu chấu…) làm nên cuộc sống này. “Làm thơ tặng chú bé con/ Làm thêm câu nữa tặng con chuồn chuồn/Xong rồi bỏ bút tựa lưng/ Vào gốc cây ngủ ngoài đường chịu chơi/Nắng trưa nắng xế đầy trời/Bóng cây râm mát che đời ta điên”.

Đây chính là khoảng thời gian ông trở về sống với bản lai hòa nhập tinh thần hoa nghiêm. Tinh thần của: “Vũ trụ bao la, không bỏ xót một sinh linh nhỏ bé. Một vật không bỏ, thì tất cả vạn tượng bao la đều bao trùm cả. Mọi sinh linh đều bao hàm hết, thì cả pháp giới huyền diệu đều trở về đủ cả trong ta”. Hoa Nghiêm mở ra thế giới quan đẹp đến thế. Bùi Giáng chăn dê như thể được trở về thỏa thích với những gì mầu nhiệm cùng hiện hữu nơi thế giới này. Cuộc sống trong đó đã mang đủ ý nghĩa vô cùng. 

“Ngẩng đầu lên! dê ơi anh thong thả
Đeo vòng vào em nghển cổ cong xinh
Ngẩng đầu lên! đây lòng anh vàng đá
Gửi gắm vào vòng mây nhuộm tơ duyên
Ngẩng đầu lên nhìn anh mờ mắt lệ
Từ lần đầu vòng ngọc tuổi hai mươi
Trao người em trăm năm lời ước thệ
Đây lần đầu cảm động nhất mà thôi.
Vòng em xong, vòng anh dành riêng chiếc
Dành riêng mình - dê hỡi hiểu vì sao.”

Ông nói chuyện với dê làm ta liên tưởng tới điển thoại Ngoan Thạch Điểm Đầu- Trúc Đạo Sinh. Pháp sư Trúc Đạo Sinh khi giảng kinh Pháp Hoa chỗ “Tất cả chúng sanh đều là Phật sẽ thành” Ngài đề cập: “Nhất-xiển-đề có khả năng thành Phật.”Kết quả bị các Pháp sư khác chống đối, hiềm khích Trúc Đạo Sinh. Họ cho rằng Trúc Đạo Sinh giảng giải nghịch với ý kinh và đã làm sai khác với lời Phật dạy. Vì sự hiềm khích đã sinh khởi, không còn có ai đến nghe Trúc Đạo Sinh giảng kinh nữa, thế nên Pháp sư vào núi Hổ Khâu, thuộc Tô Châu, gần Thượng Hải, gom đá núi lại rồi giảng kinh cho đá nghe, xiểng dương tinh thần nhất-xiển-đề cũng có Phật tánh. Pháp sư hỏi đá núi: “Tôi nói nhất-xiển-đề cũng có Phật tánh, quý vị nghĩ sao. Tôi nói có đúng không?” Những tảng đá núi lặng lẽ gật đầu như thể tán thán lời ngài vậy. Thế nên nói:Sinh công thuyết pháp, Ngoan thạch điểm đầu (Trúc Đạo Sinh giảng pháp, Đá thán phục cúi đầu!)

 

Bùi Giáng xin ăn giữa phố thị mang tinh thần đích thực của vị khất sĩ. Ông lang thang xin ăn như thể để lại tất cả những gì vướng bận không cần. Bình dị như vị khất sĩ gia tài chỉ có bình bát. Thế mà một hôm, vị khất sĩ vứt bỏ cả bình bát của mình, chỉ vì nhận ra nó không cần thiết nữa khi thấy một người dùng tay lấy nước uống bên sông. Và cuộc sống của ông đơn giản cũng thế. Cái đơn giản đã đạt đến sự tinh tế diệu kì. Cái đơn giản mà Leonardo Da Vinci- danh họa thiên tài người Ý quan niệm: “ Đơn giản là tinh tế tối hậu”. Và ngôn ngữ của ông là ngôn ngữ tận cùng của sâu thẳm và tinh tế, để rồi cái đỉnh tột cùng tư tưởng của thứ ngôn ngữ ấy hiện sinh ra một sự sống bằng cuộc đời của ông trong từng khoảnh khắc sát na biến hiện dị kì. Cái đơn giản hồn nhiên của ông, chính là sự trân trọng một cuộc sống. Một cuộc sống không vướng bận những điều không cần thiết vướng bận để cho cuộc đời giải thoát. Đó chính là một sự sống thật trọn vẹn với tinh thần phụng hiến cao cả dành cho đời sống này mà ông đã ghé thăm thật đầy ý nghĩa. Ý nghĩa không phải cho ông, mà là ý nghĩa ông đã cho cuộc đời này bằng thứ tình yêu với những điều bất tận cần thức tỉnh vậy.

“Trần gian hỡi tôi đã về đây sống

Tôi đã tìm đâu ý nghĩa lầm than

Tôi ngẩn mặt ngó ngàn mây cao rộng

Tôi cúi đầu nhìn mặt đất thâm đen

 

Tôi chấp thuận trăm lần trong thổn thức

Tôi bàng hoàng hốt hoảng những đêm đêm

Tôi xin chịu cuồng si để sáng suốt

Tôi đui mù cho thỏa dạ em yêu.”




buigiang-chandung

 BÙI GIÁNG DỊ THƯỜNG   ( Trung Niên Thi Sĩ )

 

Ông kẹ Bùi Giáng thật hay

Vác mang đủ thứ cũng đầy hiên ngang

Vậy mà tâm lại rỗng rang

Bán Dùi vững bước thẳng đàng bán rao   ( BD = BG )

 

Dùi đây đục thủng cống cao

Xuyên luôn ngã mạn thọc vào tham si

Giận hờn nào dám lợm lì

Khi dùi nhọn xoáy cho mi tiêu đời

 

Kẻ ham danh lợi bời bời

Ngã pháp chấp thủ ta thời dùi luôn

Dùi cho ác kiến chìm xuồng

Để lên bờ nhẹ mà buông xả mình

 

Thương cho tầng lớp cùng đinh

Thấp cổ bé họng chân tình thiết tha

Đồng chí xích lô đại ca

Ve chai hốt rác em là tiên nương

 

Cô em mọi nhỏ dễ thương

Tất cả đều sẵn tánh thường Diệu Tâm

Trung Niên thi sĩ nhập thầm

Nên chi tự tại cõi trầm thế gian

 

Vẫn vào ra quá thênh thang

Mặc phong trần phủ cứ tràn lan chơi

"Vui thôi mà" câu để đời

"Máu me xương xảu" thấu lời tận ngôn  

 

Thi ca Bùi Giáng xuất hồn

Tài hoa Bùi Giáng mãi tồn lưu đây

 

 Quảng An Houston, Tx

 * "Vui Thôi Mà, Máu Me Xương Xẩu lời Bùi Giáng" 

Chỉ cần một bài thơ này thôi cũng đủ cho Trung Niên thi sĩ trở mình dưới mộ mỉm cười, vì đã có người hiểu được mình.

Từ đây yên lòng mà thong dong tiếp cuộc tiêu dao ở bên kia chốn miền thiên cổ. Nàng Thơ xuất thần làm được bài thơ Bùi Giáng Dị Thường thật tài tình, độc đáo như thế. (Tâm Nhiên)

                                         

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2017(Xem: 12326)
Ơi dòng Hương hỡi dòng Hương Hiển linh mong chỉ hộ đường giúp ta Phải chăng thị hiện đó mà Mười phương là một – Một là mười phương Lê Sa Đà đã nói như thế, về quê hương mình. Sông Hương, núi Ngự là nơi chốn thi sỹ sinh ra đời, từ năm 1946. Suốt một thời thanh xuân rực rỡ, thở nồng nàn, mát rượi, dưới mái trường Quốc Học, chàng thi sỹ mơ màng, lãng đãng chạy theo những tà áo trắng như đàn bướm của các nàng nữ sinh Đồng Khánh bay lượn trong nắng vàng, lấp lánh long lanh… Từ cái đẹp sơ nguyên, thanh thoát đó, vô tình đã xui khiến chàng tuổi trẻ sớm cưu mang, hàm dưỡng và tựu thành một hồn thơ say đắm, đầy nhạy cảm giữa mười phương trời lữ thứ...
05/02/2017(Xem: 3629)
Lẽ thật cuộc đời vốn là không Chẳng có chi mô phải mất lòng Không ai gây khổ cho mình cả Mê muội đến từ thiếu hiểu thông .
13/01/2017(Xem: 5377)
Tổng thống Barack Obama phát biểu chia tay Nhà Trắng tại thành phố quê nhà Chicago vào tối ngày 10/1, tức sáng ngày 11/1 giờ Hà Nội. Dưới đây là nội dung bài phát biểu của ông: "Xin chào Chicago Thật vui khi trở về nhà. Cảm ơn tất cả mọi người. Michelle và tôi cảm thấy rất xúc động vì những lời chúc mà các bạn đã gửi tới chúng tôi trong hai tuần qua. Nhưng tối nay, đến lượt tôi nói lời cảm ơn. Dù chúng ta đã từng nhìn hòa thuận hay không hề đồng tình với nhau, những cuộc trao đổi giữa tôi với các bạn - người dân nước Mỹ, trong các phòng khách, nông trại, nhà máy, các bữa tiệc hay những tiền đồn quân sự xa xôi, đã giúp tôi trung thực, giúp tôi có nguồn cảm hứng và tiếp tục công việc. Mỗi ngày tôi đều học được từ các bạn.
07/01/2017(Xem: 3700)
Khi ngọn gió chớm đông thỉnh thoảng thổi qua những cụm rừng trong và ngoài thành phố, nhất là những vùng Bắc và Đông Bắc Mỹ, những chiếc lá diễm màu chín mộng cuối thu cũng đã lần lượt trở về cội xưa, tiếp theo qua những cơn gió hối hả, để lại cái cảnh cây đứng trơ cành khẳng khiu giữa bạt ngàn sương khói, tựa như những dãy san hô khổng lồ trên mặt đất, trên núi đồi, như báo hiệu mùa đông đang đến và rồi đã đến, còn có những cơn mưa cuối thu xối xả như dành một ít nước dinh dưỡng cho cây, cho cỏ, cho muôn hoa vào những tháng ngày giá băng tuyết phủ.
07/01/2017(Xem: 5513)
Tuệ Sĩ – Người gầy trên quê hương điêu tàn. Tuệ Sĩ – Người ẩn mình dưới lòng hố thẳm hun hút, Tuệ Sĩ – Trên đỉnh Trường Sơn chót vót sương mù, mây trắng. Những hình dung từ tiêu biểu cho một con người như còn lãng vãng đâu đó, náu mình trong khói đá. Ẩn hiện trên khói sóng. Nhấp nhô trên những lượng nước bạc đầu của đại dương. Hiển hiện trên quê hương điêu tàn. Núp sâu trong lòng người khốn khó. Ngày cũng như đêm luôn có ở những nơi đó. Có như một linh hồn mục nát, đọa đày giữa muôn triệu linh hồn đau thương, gầy guộc. Luôn kêu gào thấu trời xanh, nhưng những kẻ quyền uy tham vọng ở nơi đó vẫn bịt tai, nhắm mắt như loài khỉ nhảy nhót trên cành cây vô lương tri. Như bầy thú hoang dẫm nát núi rừng nơi chúng ở. Một vì sao sáng ở phương đông để dẫn lối cho các vì sao lạc hướng. Cả bầu trời đen ngòm, thăm thẳm u minh, bao trùm muôn vật, gục đầu trong tuyệt vọng.
20/12/2016(Xem: 7036)
Lại thêm một mùa xuân về trên xứ người, nếu đếm trên đầu ngón tay sợ rằng phải cần thêm một bàn tay nữa mới đủ số. Vậy trong khoảng thời gian dài đằng đẳng ấy, người viết này đã làm gì cho đồng bào, “dân tộc“ đau khổ tại quê nhà. Hay lại chỉ mải lo chuyện “vinh thân phì da“ hưởng cuộc đời phước báu tại xứ sở được tạm gọi là “thiên đường“ này. Ấy! Các bạn không biết chứ! Chúng tôi, một “đạo quân tóc dài“ mới thành lập một nhóm lấy tên là “Văn bút đánh trâu“ (cấm nói lái), quy tụ những cây bút “lừng danh“ từ xưa đến giờ chỉ chuyên viết lưu bút ngày xanh hay chuyện tình diễm lệ cỡ Quỳnh Dao, sau viết cho báo Chùa nên đổi thành những bài tường thuật các khóa tu. Một lực lượng hùng hậu như thế mà chuyển hướng viết về đề tài Đánh Trâu thì nhất định sẽ bẻ gẫy sừng trâu phải không các bạn?
14/12/2016(Xem: 13690)
Bước vào thiên niên kỷ mới, trong mười năm của giai đoạn đầu tiên (2006-2016), Phật giáo đã khai dụng được nhiều cơ hội nhưng cũng phải đối diện với lắm thách thức giữa một thế giới đầy biến động. ● Xin nhận diện một số cơ hội: Xu thế mà người dân trong hai lục địa Âu và Mỹ đón nhận Phật giáo vừa như một triết lý sống nhân bản, vừa như một khoa học trị liệu hiệu quả đã bước qua khỏi giai đoạn nghiên cứu kinh viện để lan tỏa ra trong nhiều lãnh vực ứng dụng thiết thực khác của đời sống. – Hiện tượng những tổ chức Phật giáo quốc gia đơn lẽ đang nhịp nhàng gia nhập vào các mạng lưới Phật giáo quốc tế đã trở nên chặt chẻ hơn. – Những công trình nghiên cứu và khảo sát kinh điển Phật pháp càng lúc càng nhiều và càng có phẩm chất nhờ ứng dụng công nghệ thông tin khi xử lý các văn bản. – Nghệ thuật và văn học Phật giáo được giới trí thức trên thế giới khám phá và xác nhận như một dòng chủ lưu đóng góp vào những giá trị nhân văn của nhân loại – …
03/12/2016(Xem: 10433)
Sau nhiều năm nghiên cứu Kinh Dịch bị nhận lầm là của Trung Hoa, tôi phát hiện Trung Thiên Đồ được ẩn dấu trong truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ, mà đồ này đặc biệt lại là chìa khóa để viết Kinh Dịch, nếu giảng Kinh Dịch theo phương vị Hậu Thiên Đồ như cách làm của các Dịch học gia Trung Quốc từ cổ đại đến hiện đại thì sẽ khiến cho Quái từ, Hào từ trong kinh văn trở nên khó hiểu, rời rạc, đứt đoạn. Ngược lại nếu giảng theo phương vị Trung Thiên Đồ thì câu chữ hóa thành sáng sủa, mạch lạc, mỗi quẻ là một bản văn hoàn chỉnh, liên ý với nhau. Trung Thiên Đồ chính là chứng từ duy nhất để chứng minh Kinh Dịch là di sản sáng tạo của tổ tiên người Việt Nam.
03/12/2016(Xem: 4090)
Tản mạn về năm Dậu - *rơ(ka) - gà (phần 14A) Nguyễn Cung Thông Phần này viết về năm con gà (Dậu), tiếp theo1 phần 14 "Nguồn gốc Việt Nam của tên 12 con giáp - Dậu - *rơ(ga) - gà (phần 14)", chú trọng đến các dạng khác nhau của danh từ gà cũng như tại sao loài gia cầm này giữ một vị trí đặc biệt trong 12 con giáp Á Châu. Các âm thanh của gia cầm rất quen thuộc với con người - từ ngàn năm qua - là tiếng chó sủa, tiếng gà gáy và mèo kêu meo meo ... Chỉ có tiếng gà gáy đã ghi lại nhiều dấu ấn trong văn hóa và ngôn ngữ vì có khả năng liên h
19/11/2016(Xem: 5928)
Nhưng việc ra mắt sách chỉ là cái cớ, bởi bản thân dòng thông tin ngắn gọn rằng nhà sư Thích Phước An từ đồi Trại Thủy (Nha Trang) vào Sài Gòn đã có một sức quyến rũ đặc biệt đối với bạn bè, người đồng đạo và giới quan tâm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]