Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ngược Đời

26/04/201807:21(Xem: 3833)
Ngược Đời


tim con suoi moi-2


NGƯỢC ĐỜI


Thích Tâm Tôn  

Ngược dòng Mekong về hướng Thượng Lào. Nơi ngã ba sông Nam Khan chảy nhập vào dòng Mekong tạo nên một cảnh quang rất đặc trưng của cố đôLuangprabang cổ kính. Dòng sông với nhiều khúc quanh tạo nên những dãi uốn lượn có phần chảy xiết xuôi về hướng hạ Làokhiến con sông trông càng thêm đẹp. Nép dọc hai bờ, những rạng rừng núi nguyên sơ với những tàn cổ thụ rợp mát. Nhịp sống vẫn êm ả,sự thư thảcủa dân Lào có phần chậm lại vốn dĩ tạo nên nét rất đặc biệt nơi đây so với tất cả những danh thắng du lịch ở nơi khác. Và giữa rộn ràng của thói quen với những gì của thế giới hiện đại mà con người tiếp cận thường ngày, một quán Cà Phê trong không gian chỉ dành cho sự yên tĩnh của một người Pháp rất khéo ẩn dưới những bóng cây bên ghềnh đá của ngã ba con sông. Không có sự hiện diện của bất cứ một phương tiện nhộn nhịp nào của thế giới hiện đại được chào đón trong không gian mang tính thư giản này. Nơi ấy, không Wifi, không tiếng nhạc,hoạtđộng nhẹ nhàng của nhân viên phục vụ, chỉ có tiếng trải lòng hòa điệu với tiếng thiên nhiênđủ khiến du khách ý thức không nên ồn ào gây tiếng động lớn. Những dòng chú ý đại loại như thế được đặt trên mỗi bàn nước. Khái niệm “khách hàng là Thượng đế”, hẳn nhiên không tồn tại nơi đây. Tất cả đây quả thật đặc biệt rất “ngược đời”, nhưng khi trải nghiệm mới thấy được cái “ngược đời” ấy nó hay và độc đáo như thế nào giữa thế giới hiện đại này.

“Ngược đời” là một tính từ mang khái niệm với rất nhiều hàm ý. Với những gì diễn tiến theo chiều hướng tiêu cực đưa đến những kết quả sai lệch là ý nghĩa phổ biến nhất được liên tưởng đến khái niệm này. Nhưng không thể bỏ qua ý nghĩa tích cực lớn hơn rất nhiều của khái niệm “ngược đời” theo tư duy xây dựng ý tưởng “đảo ngược” sinh động trong dòng sống đa chiều, nhằm mang lại những giá trị chân thực và mới mẻ hơn,  hiệu quả cao hơn, vượt khỏi hẳn những giới hạn của khuôn khổ có tính chủ quan cổ hủ.  Đó chính là khái niệm “tư duy khác biệt”, “tư duy đảo ngược” mà thế giới hiện đại, cũng như trong lí luận triết học rất đề cao từnhững hiệu quả của nó mang lại.Đặc biệt,trong phương pháp giáo dục, trong lí luận học thuật, cũng như trong việc xử lí những vấn đề thuộc cộng đồng Tăng của Phật giáo; đức Phật vận dụng cách thức này trong rất nhiều tình huống để đối trị những diễn tiến thường tình, những phán đoán cảm tính, những thói quen suy xét xuôi chiều, nhằm mang lại kết quả trung thực và tốt đẹp nhất có thể.Những hiệu quả rất tích cực ấy, dễ dàng nhận thấy trong xuyên suốt những gì liên quan đến cuộc đời đức Phật và rõ ràng nhất là chính con đường “ngược đời” mà Ngài đi.

Một người biện minh cho lí lẽ  riêng nào đó của bản thân, bất chấp những hiểm nguy, chạy xe ngược vào đường cao tốc. Hành động ấy là hết sức ngược đời với sự nhìn nhận của tất cả mọi người. Đây chắc chắn là một hành động “ ngược đời” hết sức điên rồ nguy nhiểm, không thể chấp nhận bởi luật pháp, không được khuyến khích trải nghiệm.

Trong một khu rừng, bác cọp luôn xem mình là chúa tể sơn lâm. Phần lớn mọi loài thú khác cùng sống trong khu rừng ấy đều phải khiếp sợ trước oai phong của bác. “Kính nhi viễn chi” hẳn nhiên là suy nghĩ vì sự an toàn tánh mạng đối với mọi loài dành cho cọp. Hằng ngày, anh khỉ vẫn chứng kiến bao chuyện xảy ra với muôn loài hết sức tàn bạo mà bác cọp kia hành xử.Thế nhưng, khỉ lại là anh bạn đặc biệt có suy nghĩ rất ngược đời. Khỉ xem chuyện trêu đùa với cọp là thú vui không thể thiếu mỗi ngày. Bác cọp sau những chặng đường rong ruổi khắp đó đây, mỗi khi tìm nơi nghỉ ngơi dưới những bóng cây thì lại thường bị làm phiền bởi anh khỉ đủ đầy những chiêu trò nghịch ngợm. Anh khỉ tinh ranh không biết đâu cứ bất chợt từ cành cây cao nhảy nhào xuống giật mạnh đuôi, sờ tai, nhảy cả lên người bác cọp, rồi chớp nhoáng liền chuyền lên cành cao. Cứ thế mà khỉ vợn vờ giễu cợt,không một chút nễ nang,và thách đố với cảbác cọp dữ tợn. Ngày nào cũng diễn trò cảnh ấy, lòng bác cọp rất tức giận. Lúc đầu bác phản ứng rất mãnh liệt bằng tất cả oai phong của một chúa tể đối với thằng nhãi khỉ tinh ranh kia. Nhưng tất cả những phản ứng ấy đều không làm cho anh khỉ khiếp sợ mà ngược lại anh khỉ càng tinh nghịch trêu đùa nhiều hơn. Dần dần cọp thấy không thể làm được gì với nhóc khỉ lì lợmnày, nên rồi cũng dần tập chấp nhận nhắm mắt mặc nhiên cho những phá phách trêu đùa. Khi thấy bác cọp không còn những phản ứng gì nữa, thì anh khỉ lại cũng bớt dần những bầy trò tinh nghịch. Thế rồi bác cọp có hôm nằm cảm thấy buồn khi thiếu những trò của khỉ, nên lại có vẻ cũng tìm cách trêu chọc như muốn bọn khỉ đùa chơi với mình. Và như thế, ngày lại ngày cọp và khỉ vờn đùa với nhau làm cho khu rừng trở nên sinh động hơn với đời sống hoang dã. Đây là một suy nghĩ và hành động kiểu ngược đời rất đáng yêu của khỉ. Nhưng sinh động hơn là anh khỉ làm thây đổi rất lớn lối sinh hoạt của muôn loài trong khu rừng, và đặc biệt làm cho bác cọp thây đổi suy nghĩ cũng như lối hành xử cổ hủ của mình .

Với Phật giáo, con đường hướng đến những trải nghiệm thường đặt trong chiều hướng đảo ngược thực tế, đưa đến kết quả chuyển hóa rất nhiều nghĩa sống trở nên tốt đẹp. Cái chết, luôn là nổi ám ảnh rất kinh khủng hằng đeo mang trong sâu thẳm với hầu hết số đông. Càng sợ điều đó, phần lớn tìm cách phủ nhận nó như không hề liên quan và không chấp nhận như có sự liên quan gì đến nó. Từ đó họ cố tìm và lao vào những thứ cảm giác tạm bợ nào đó để sống, quên đi nổi ám ảnh của sự chết, che đậy bớt những khủng hoảng khó thoát của cuộc đời. Đức Phật với tư duy của Ngài khác biệt hơn, ngược đời với phần lớn số đông kia. Ngài lại tư duy nhiều hơn về cái chết, nói nhiều hơn về những gì liên quan đến cái chết, những chuyển biến vô thường, và đặt cả bản thân vào hoàn cảnh của sự chết. Không ít những thắc mắc được nêu ra cho Ngài và những ai đi theo con đường Ngài đại loại như: Ông Cù Đàm nói nhiều về cái chết là có ý gì thế? Và cuộc đời này không biết bao nhiêu điều thú vị để nói tới, việc gì cứ ngồi đó mà trầm tư về những chuyện không ai muốn như vậy?

Phật giáo nói nhiều về vô thường hay cái chết. Đây không phải là một tư duy tiêu cực bi quan. Bởi lẽ, “chiêm nghiệm nhiều về sinh tử sẽ thúc đẫy bạn suy nghĩ toàn diện hơnvề cuộc sống của mình và những gì bạn muốn để lại cho đời. điều này có ý niệm giúp bạn rõ ràng hơn về ý nghĩa và niềm vui trong cuộc sống của mình”- Alice Rebekah Fraser

Đây chính là hiệu quả tích cực theo hướng trải nghiệm tư duy “đảo ngược” của đức Phật và Phật giáo ứng dụng được tìm thấy qua những vần thi kệ ngắn của bài kinh Mũi Tên thuộc Tiểu Bộ Kinh: “ Sinh mạng của loài người/ Ở đời không ai biết/ Không tướng, nhiều phiền toái/Nhỏ nhoi, liên hệ khổ/Không có sự gắng nào/Khiến sống thoát khỏi chết/Sau khi già là chết/Pháp hữu tình là vậy/Như các trái chín mùi/Có sợ bị rơi sớm/Cũng vậy người được sanh/ Thường có sợ bị chết/….Như vậy thế giới này/Bị già chết chi phối/Do vậy, bậc nhiều trí/Biết đời, nên không sầu/Ai không biết con đường/Đường đến và đường đi/Do không thấy hai ngã/Than khóc, không lợi ích/….Không với sầu, nước mắt/Khiến nội tâm an tịnh/Khổ càng tăng trưởng thêm/Thân càng bị gia hại/….Ai tự tìm hạnh phúc/Hãy tự mình rút tên/Mũi tên là than khóc/Tham cầu tư âu sầu/Ai đã rút mũi tên/Không nương tựa nhờ cậy/Tâm vị ấy đạt được/Sự an lành an tịnh/Vượt khỏi mọi ưu sầu/Tâm không sầu, tịch tịnh”.

Thường tình số đông, khi bị tác động của cuộc sống theo xu hướng nào, thường có những phản ứng đối đãi trở lại tương tự như chính tác động kia mang đến. Anh ghét tôi, thì tất nhiên tôi không thể thương anh được. Anh sống có tình với tôi, làm sao tôi không lưu tâm nhiều để dành những tình cảm xứng đáng cho anh. Anh sống không chân thành với tôi, làm sao tôi có thể tặng một cách miễn phí cho anh sự chân thành của tôi được. Anh đã hành xử với tôi bằng những cái tát, tất nhiên phải có những cái tát tương ứng tôi sẽ dành cho anh..v.v..Cũng từ suy nghĩ này, có những dịch vụ gọi là “đập phá đồ đạc” nhằm đáp ứng giải quyết khủng hoảng tâm lí cho những người gặp những điều bất như ý trong cuộc sống tránh những nguy hại đáng tiếc. Nhưng đây là một dịch vụ không hoàn toàn có ý tưởng tốt, vì sẽ không tập kiểm soát tâm lí mà chỉ dẫn người ta lao theo những cảm xúc và càng làm tăng thêm tính khí tiêu cực về lâu dài.Đó đôi khi là lẽ sống mà nhiều người cho là giá trị “sòng phẳng” của cuộc đời. Xét cho cùng, những suy nghĩ ấy chỉ nhằm đối đãi nhau ở đời cho thỏa mãn những cảm xúc tâm lí chứ không xây dựng được giá trị tích cực gì cho đời. Có thể xem những suy nghĩ ấy trong ý nghĩa “ ngược đời” mang tính tiêu cực, vì nó sẽ mang lại những hệ quả làm tan vỡ cuộc đời.

Với đức Phật một quan điểm có tư duy rất tích cực trong ý nghĩa “ ngược đời” với phần lớn số đôngkia khi nói về sự đối trị lòng giận và cách giải quyết tâm thù hận theo phẩm Song Yếu thứ 4-5 trong kinh Pháp Cú:

-“Nó mắng tôi, đánh tôi,

Nó thắng tôi, cướp tôi,

Không ôm hiềm hận ấy,

Hận thù được tự nguôi”-

-“Lấy hận diệt hận thù,

Đời này không thể có.

Từ bi diệt hận thù,

Là định luật thiên thu”-

“Thayvìtìmcáchhạhỏathìviệcthểhiệnsựgiậndữrabênngoài hay trútgiậnchỉcànglàmbạn "nổiđóa" – Brock Atkinson.

Một trong rất nhiều câu chuyện cảm hóa những con người khó cảm hóa nhất được biết đến trong cuộc đời đức Phật đó là chuyển hóa Angulimāla (Vô Não)- một tên cướp sát nhân khét tiếng. Tránh xa lãnh địa mà tên cướp này trú ngụ là những cảnh giác hầu hết dân địa phương và các vùng lân cận luôn đề cao. Mạo hiểm một mình đi vào làng của tên cướp với một ai đó thì quả thật là chuyện ngược đời. Chính vì sự cảnh giác đó của mọi người,Angulimāla càng ngày càng trở nên khó thực hiện được mục đích của hắn. Trong trường hợp này, đức Phật không suy nghĩ theo số đông kia, không tìm cách xa lánh anh chàng đầy mông muội ấy. Một hôm, trên đường khất thực, đức Phật một mình khoan thai trên từng bước chân theo hướng lối dẫn vào làng vắng lạ thường. Angulimāla phát hiện thấy có người liền đuổi theo để thực hiện ý đồ sát hại. Đối diện với một tên cướp đầy sát khí, sự hoảng sợ là tâm lí biểu hiện của hầu hết mọi người. Thế nhưng, sự điềm tĩnh lạ thường của đức Phật khiến tên cướp thấy rất ngạc nhiên. ĐứcPhậtdùngthầnthông, trông rất bình yên bước nhẹ, nhưngtêncướpAngulimāla cố sức đuổi theo vẫnkhôngthểnàobắt  kịp. TêncướpAngulimālanghĩ: “Lạ thật, trướcđây ta có thể đuổikịp con voi, con ngựa, con naivà cả chiếcxeđangchạy, mà bâygiờ khôngthể đuổitheokịp Sa-mônCồ Đàmđangđibìnhthường”. Têncướpnói: “Hãydừnglại, Sa-môn! Hãydừnglại, Sa-môn!”. ĐứcPhậtkhoanthaiđáp: “Ta đãdừngrồi, nàyAngulimāla! Vàngươihãydừnglại!”. Têncướpnghĩ Sa-mônCồ Đàmkhôngbaogiờ nóidối, vậylờinóinày có ý nghĩagì. Thế là Angulimālahỏi: “Ôngđi mà lạinói ‘Ta đãdừngrồi’, còntôidừng, thì ôngnói ‘saotôikhôngdừng’ nghĩa là sao?” ĐứcPhậtgiảithích: “Vớimọichúngsanh, Ta bỏtrượng, kiếm; cònngươi, khôngtựkiềmchế, gieorắcgiếtchócvà hậnthù, nên ta đã dừng mà ngươichưadừng”. Đức Phật dường như đã làm chủ tình hình lúc này, càng khiến tên cướp trở nên bị động hoàn toàn.Đây là tình huống dẫn dắt theo cách “đảo ngược” rất thú vị mà đức Phật thực hiện.

Angulimāla bất ngờđứnglặngyên, trầmtư một lúc, rồi hạgiọngvàtừtốnthưa: “ThưaNgài, tộilỗicủatôithậttàytrời. Tôi có thể quay đầubằngcáchnào?” ThấyAngulimālađãchuyểntâm ý, ray rứtvớiviệclàmcủamình, ĐứcPhậtmở ramộtcơhộichongườibiết quay đầu, tiếpnhậnAngulimālavàoTăngđoànđể có thể làmmớicuộcđời.Angulimālaliềnquăngbỏkiếmvà khígiớixuốngvựcsâu, đảnhlễ ĐứcPhật, xinđượcxuấtgia. Tôngiả Angulimālatinhtấntu tập chẳngbaolâu, chứngđạttrạngtháigiảithoáthoàntoàn.

Khi gặp một người rơi vào sự tột cùng của khổ đau như mất con, mất chồng, cửa nhà tan hoang của người phụ nữ; đức Phật dành cho họ những pháp thoại về bản lĩnh chấp nhận thực tế để hướng đến con đường của hạnh phúc. Khi gặp những ai đấm nặng trong xung mãn những điều kiện và cảm giác như ông trưởng giả keo kiệt thì đức Phật tìm cách tiếp cận họ bằng những bài họcmở lòng về san sẻ với những hoàn cảnh khó khăn. Khi gặp những ai có số phận thế nào thì đức Phật hầu như cho họ con đường ngược lại bằng những luận lí có cơ sở hết sức thuyết phục.

Chứng kiến đoàn sư trẻ khất thực trên đường vào buổi sớm của một đất nước Phật giáo Nam truyền, cũng có thể trải nghiệm được giá trị nhẹ nhàng giải thoát có ý nghĩa như thế nào giữa dòng đời đầy bôn ba chộn rộn của muôn vàn cuộc sống. Vị sư trẻ cuối cùng của đoàn sư khất thực trong tư thế phải nhận hết tất cả những nắm xôi đầy ngập bát còn lại mà đoàn phật tử dâng cúng, sự hoan hỉ vẫn biểu hiện viên mãn cùng giá trị “ ngược đời” giữa đời thường chẳng chút ưu tư.

Hay một cư sĩ nghệ nhân rất nổi tiếng của làng Gốm cổ Bát Tràng, với tư duy “ngược đời” tạo những không gian thiền rất an tịnh đặc sắc có tên “Thuận An Đường” giữa dòng đời còn bao bày bộn chung quanh với kinh doanh thương mại. Ngày ngày ông vẫn dành những trải nghiệm cuộc sống với những vần thi ca giàu tính thiền học giữa cuộc đời và không quên câu “A Di Đà Phật” rất đẹp tròn nghĩa sống.

“Chuông ngân, lòng nhẹ nhõm.

Vơi đi mọi sầu lo,

Vui buồn hay sướng khổ,

Do mình,…nào ai cho?!..

Adidaphat!- Văn Thuận An-

Và đây:

Đêm qua thầnchếtnhắc:
Trongtimđãvài Ten ( Stent )
Tuổiđãngoàilụcthập 
Bậnlònggìchê, khen?!' 
-
Cầmtaythầncảmtạ:
"LờiThầnnhắchôm nay 
Nhiềunăm qua tôiđã 
Thựchiệntốtđiềunày ".
-
Nhạcthiền ,tràhươngngát 
Hươngtrầmthoảng bay xa 
Mọiannhiêntựtại
Bình an...do chính ta 
Adidaphat !' -Văn Thuận An    

 

Và giữa dòng đời thường xuôi dòng cùng lẽ sống, vẫn còn rất nhiều bước chân trải nghiệm “ngược đời” rất sinh động và rất đẹp trong cuộc sống này.

 “Vui thay chúng ta sống,

Không rộn giữa rộn ràng;

Giữa những người rộ ràng,

                          Ta sống không rộn ràng”- Pháp Cú số 199.

 

Nam Mô A Di Đà Phật.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/11/2021(Xem: 3956)
Là người thâm tín Phật, cung kính phụng thờ Tam Bảo, thì luôn có một đức tin kiên cố rằng: Dù ở bất cứ thời gian nào, không gian nào vẫn luôn có chân thân các bậc thượng nhân hóa thân hành hoạt cứu nhân độ thế. Các Ngài luôn có mặt giữa cuộc đời để nâng đỡ chúng sanh vạn loại. Vững chải đức tin như thế nên mỗi khi về chùa Phi Lai (hoặc Phi Lai Hòa Thịnh hoặc Phi Lai Biên Hòa, tôi luôn thấy hình bóng chân nhân trưởng lão Tâm Nguyện – Thiện Tu -Thượng DIỆU Hạ TÂM hiện hữu mồn một ở đó. Tôi thấy rất rõ từng bước chân như hoa sen nở Ngài bước đi, như lắng nghe từng tiếng từng lời ngài đang dạy bảo, khuyên lơn, khuyến khích Phật tử chúng ta nuôi dưỡng tâm bồ đề mỗi ngày mỗi lớn hơn lên, từng ngày từng kiên cố hơn. Từ đó tôi thấy : Ngài như chưa từng đến nên Ngài cũng đã chẳng ra đi. Ngài là hiện thân bậc thạc đức “Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng . Bất cứ lúc nào Ngài cũng đang có mặt, hiện trú nơi cả hai ngôi chùa Phi Lai Hòa Thịnh Phú Yên và Phi Lai TP Biên Hòa…
08/11/2021(Xem: 10944)
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học. Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
06/11/2021(Xem: 12927)
Kinh Hoa Nghiêm là tên gọi tắt của bộ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’ do Ngài Long Thọ Bồ tát viết ra vào thế kỷ thứ 2, tức khoảng 600 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có nghĩa là đóa hoa tuyệt đẹp, thanh khiết. Phần Hán tự đã được dịch ra từ thế kỷ thứ 5, dưới ba hệ thống Bát Nhã (40 quyển), Giác Hiền (60 quyển) và Nan Đà (80 quyển) . Nhập-Pháp-Giới (Gandavyuha) là phẩm thứ 39 trong số 40 phẩm, cũng là phẩm dài nhất, tiêu biểu cho giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung, diễn tả con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 52 vị Thiện Tri Thức dưới nhiều hình tướng, khởi đầu là ngài Văn Thù Sư Lợi, chư Thiên, Dạ thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Đức Phật Di Lặc..., và cuối cùng là Ngài Phổ Hiền.
06/11/2021(Xem: 6530)
Chép lời kinh mượn khuôn trăng làm giấy, Cõi diêm phù đất vẽ dấu chân xưa Đức ân Người sóng vỗ pháp âm đưa Quy thân mạng mười phương con đảnh lễ.
26/10/2021(Xem: 4648)
Nhìn chung, đại dịch đang dịu bớt tại Hoa Kỳ và quê nhà. Chưa bao giờ pháp ấn vô thường hiển lộ mãnh liệt như thời gian qua. Chưa bao giờ Khổ Đế hiển hiện minh bạch như thế, ngay trước mắt và ngay bên tai của mọi người đời thường. Có những người buổi sáng mới gặp, tới buổi chiều được tin họ đã nhập viện và không bao giờ có cơ hội gặp lại nữa. Cảm xúc đó đã được nhân loại trải nghiệm trên khắp thế giới, không riêng tại quốc độ nào. Bài viết này xin phép để nói một kinh nghiệm riêng (và có lẽ cũng là kinh nghiệm của rất nhiều người): đọc Kinh Phật trong mùa dịch, với cảm xúc rằng có thể đêm nay sẽ lìa đời. Do vậy, bài viết này cũng để Tạ Ơn Kinh Phật. Nơi đây chỉ là vài ý riêng, người viết hoàn toàn không có thẩm quyền gì về Phật học.
25/10/2021(Xem: 2504)
Mây qua trời. Có khi trắng, có khi đen. Có khi tụ, có khi tán. Ngưng tụ mà thực ra là chuyển động liên tục; tán thất mà thực không mất đi đâu. Vận hành tự tại, biến hóa vô số hình thù, rồi tan biến, rồi kết tụ trong một hình thể khác, hiện hữu nơi một không gian khác. Đến-đi cùng khắp, đông tây, nam bắc, phương trên hay phương dưới, không nơi nào mà không có mặt. Từ vô cùng quá khứ đến hiện tại và vô tận tương lai, trông như giống mà thực không giống, trông như cũ mà thực không cũ. Luôn mới mẻ tinh khôi trong từng giây phút. Đêm lẫn ngày, vẫn thường sinh-diệt, chuyển biến không ngừng. Tùy duyên ứng hiện, nơi đâu rồi cũng thuận hợp, chan hòa.
04/10/2021(Xem: 3718)
Trong những gì tôi được đọc và được nghe kể, hình như nhà thơ Bùi Giáng không còn tham sân si, hay nếu còn, thì rất là ít. Không rõ có ai chứng kiến lúc nào Bùi Giáng khởi tâm tham sân si hay không. Rất nhiều người đã thân cận, đã chứng kiến đời thường của nhà thơ họ Bùi và đều nhận thấy nhà thơ như là người của cõi khác, người bay trên mây, người lạc tới thế gian này, như dường không còn chút nào tham sân si; hay chỉ còn, nếu có, thì rất ít.
30/09/2021(Xem: 2643)
Bên cửa sổ, tia nắng chiều thu len vào. Gió mơn man rung nhẹ lá cây vườn ngoài. Lá vàng lá xanh cùng phơi mình quanh cội cây già. Mùi cỏ thơm dìu dịu gây nỗi nhớ bâng quơ. Tiếng vĩ cầm du dương đâu đó dìu dặt đưa hồn về cảnh cũ quê xưa.
26/09/2021(Xem: 6400)
Mùa Hạ nóng bức đã đi qua, mùa Thu chợt đến mang theo những cơn mưa đầu mùa, dấu chân ấy đang lang thang khắp cả dãi nắng niềm Trung, ra tận khắp hai đầu Nam - Bắc. Những giọt mưa đông đang tràn về khi dịch tể hoành hành khắp đất trời và trên Thế giới, trong đó có Việt Nam, khiến cho bao nhiêu triệu người bị thiệt mạng, dẫu có thuốc ngăn ngừa tiêm chủng trên Thế giới, giờ tất cả sống chung với căn bệnh Virus Corona, vì một Đại cuộc sinh tồn bảo vệ nhân sinh. Từ một Quốc gia có tiềm lực kinh tế giàu mạnh, khởi tâm tình thương chia sẻ viện trợ cho Quốc gia mới phát triển, giúp cho hàng tỉ người được tiêm chủng phòng ngừa, giờ tất cả nhân loại đang sống chung với Virus Corona, ai ai cũng nên tuân thủ việc bịt khẩu trang vì chúng ta hãy hiểu rằng: “Bịt khẩu trang, sẽ dễ chịu hơn nhiều, khi mang theo máy thở”.
19/09/2021(Xem: 8731)
Vũ Khắc Khoan sinh ngày 27/02/1917 tại Hà Nội. Mất ngày 12/9/1986, tại Minnesota, Hoa Kỳ. Học sinh trường Bưởi; Lên đại học, theo ngành y khoa hai năm, trước khi vào trường Cao Đẳng Canh Nông. Tốt nghiệp, làm kỹ sư canh nông được một năm rồi chuyển hẳn sang dạy lịch sử tại hai trường Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà Nội và hoạt động kịch nghệ, viết văn, thành lập nhóm Quan Điểm với Nghiêm Xuân Hồng. Từ 1948 Vũ Khắc Khoan bắt đầu in bài trên báo Phổ Thông: hai vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948) và Giao thừa (1949) và bài tùy bút Mơ Hương Cảng (1953).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]