Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn

10/04/201807:20(Xem: 3586)
Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn
hat nang bo de

Đọc: Hạt Nắng Bồ Đề
Ký sự hành hương của Văn Công Tuấn

Chữ bay từng cánh chim ngàn

Mỗi câu là mỗi Niết bàn hóa thân.

Xin phép được “tựa” vào hai câu thơ của cố Giáo sư Vũ Hoàng Chương, để bước vào thế giới văn chương của Văn Công Tuấn. Vì rằng, có lẽ, anh đã có nhiều duyên lành để dung thông với tư tưởng uyên áo của các bậc Thầy khả kính nơi ngôi trường Vạn Hạnh của ngày xưa Sài Gòn. Cũng như sau nầy có nhiều thuận duyên để tìm hiểu thêm về tư tưởng các danh nhân trên thế giới. Trong đó anh đã dành cảm tình đặc biệt với văn hào Hermann Hesse. Người đã được thừa hưởng “gia tài tâm linh” của một “ông lái đò” qua câu chuyện dòng sông. (“Khi dòng sông phẳng lặng thì bóng dáng chân như sẽ hiển bày”).

Hạt Nắng Bồ Đề” là ký sự hành hương của anh, do nhà sách Thái Hà in ấn trên giấy hoàng kim, với phụ bản là hình ảnh rất nghệ thuật của tứ động tâm và các di tích lịch sử. Lời giới thiệu của Thầy Thích Phước An. Lời thưa và cám ơn của tác giả. Sau cùng là Nhân đọc Hạt nắng Bồ Đề của Nguyễn Hiền Đức.

Xin bước vào để dõi theo những bước chân đi tìm...

Hay nói khác là bước vào thế giới văn chương của anh Tuấn là để cùng học hỏi, chứ không phải để nhận định hay phê bình. Vì tôi cũng chỉ là kẻ sơ học về cả đời lẫn đạo. Chỉ ghi lại những cảm xúc của mình sau khi đọc sách, và cảm thấy đây là cuốn sách hướng dẩn khách hành hương về quê hương của Phật, được mang đầy đủ các yếu tố quan trọng từ hình thức đến nội dung, từ ngoại cảnh đến nội tâm một cách phong phú và khoa hoc. Chúng tôi không dám có lời gì nói thêm, mà chỉ muốn dõi theo bước chân... như ông Bùi Giáng:

Thưa rằng nói nữa là sai

Mùa xuân đang đợi bước ai đi vào.

Vì từ “Cổ Thụ Lặng Bóng Soi”, đến “Hạt Nắng Bồ Đề” anh đã bước đi những bước thật dài, lắng sâu vào sự chiêm nghiệm. Suy niệm về lẽ vô thường, lý sắc không. Từ những nhận thức và cảm xúc về văn hóa Phật giáo rất sâu sắc. Đến lòng cầu học để ước mong được thâm nhập kinh tạng trong một kiếp hiện tiền nầy. Trải qua không biết bao những hiện tượng trùng trùng duyên khởi về ý niệm mâu thuẩn, được phủ trùm bởi màn lưới vô minh, thì hình như, anh đã bắt gặp một “dấu lặng” để một bước ngàn trùng thiên lý trong cuộc đi tìm những Hạt nắng Bồ Đề, đã trải vàng theo nhịp bước Chân Nhân.

Bước đầu tiên là giới thiệu một trong tứ động tâm, đó là Bồ Đề Đạo Tràng, nơi đức Phật Thành Đạo. Anh đã ghi nhận nhiều sự kiện xẩy ra, như Phật chứng được Tam Minh (Túc Mạng Minh, Thiên Nhãn Minh, Lậu Tận Minh) thành tựu Chánh Đẳng Chánh Giác. Như bài thuyết pháp đầu tiên Tứ Diệu Đế cho năm anh em Kiều Trần Như. Là một trong những sự kiện lịch sử vẻ vang của Phật giáo, trong đó với yếu tố quan trọng bậc nhất nầy không thể không ghi nhận:

Lần đầu tiên – và cũng là duy nhất – trong lịch sử loài người, có một vị giáo chủ tự dấn thân đi tìm ra đạo giải thoát và sau khi hành đạo dám tuyên bố rằng, tất cả mọi người có thể chứng đạo như Ngài, có thể ngồi trên pháp tòa tối thượng như Ngài. Ấy là một sự kiện vĩ đại nhất của nhân loại, cho mãi cả đến ngày hôm nay”.(trích: Chứng đạo dưới cội Bồ Đề. Hôm ấy đã là quá khứ”. (trang 30).

Bước thứ hai là: Đọc Hoa Nghiêm dưới chân tháp Hoa Nghiêm. Là Phật tử thì chắc chắn ai cũng đã nghe quý thầy giảng về Kinh Hoa Nghiêm. Bộ kinh mà đức Phật sau khi thành đạo, đã từ trong thiền định giảng kinh cho các vị Bồ tát và Duyên giác trong vòng hai mươi mốt ngày. Là một bộ kinh vô cùng thâm diệu, khó nghĩ khó bàn, không có mấy người chạm chân vào bậc thềm của Hoa Nghiêm. Nên ở đây tác giả chỉ kể lại nguyên nhân tạo cơ duyên đọc kinh mà thôi:

Lý do thứ nhất: Ba chữ kinh Hoa Nghiêm với tôi đã khá thân thuộc, dù trước khi đi chưa hề tụng hết bộ kinh nầy. Tôi nói khá thân thuộc vì gần hai mươi năm trước đây tôi từng đọc say mê Thả một bè lau của thiền sư Nhất Hạnh...

Lý do thứ hai: Khi bắt đầu học Phật, tôi học theo sách Phật Học Phổ Thông của Hòa thượng Thiện Hoa . Sách ấy viết rằng: “Trong kinh Hoa Nghiêm có câu, Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai – Một phen sân hận nổi lên thì muôn ngàn chướng nghiệp nẩy ra.”

Lý do thứ ba: Cứ đọc kinh sách, luận văn Phật Pháp một hồi thế nào cũng có người nhắc đến Hoa Nghiêm. Bóng mát Hoa Nghiêm tỏa rộng bao trùm cả giáo lý Phật Đà như bóng của cổ thụ tùng bách. Có những câu kinh căn bản như: “Nhất thiết duy tâm tạo”.

Lý do thứ tư: Trước khi chuẩn bị đi Ấn Độ tôi đã tìm gặp Hòa thượng Như Điển để xin thầy một lời khuyên là nên đọc kinh gì trong những ngày ở Bồ Đề Đạo Tràng... Thầy phán ngay: kinh Hoa Nghiêm. Tôi hiểu ý thầy, vâng lời không hỏi gì thêm (trang 52).

Là những tư liệu làm hành trang để giúp cho anh có bước chân vững chải, hy vọng được thâm nhập kinh tạng, được dung thông với cảnh giới Hoa Nghiêm.

Bước thứ ba:“Vầng nhật nguyệt sáng ngời đỉnh núi Thứu”. Là ước mơ của anh từ lâu nay, được một lần ngủ lại trên đỉnh núi Thứu, đề ban đêm được ngắm trăng và sớm mai nhìn mặt trời mọc. Vì trăng mỗi nơi mỗi khác, mặt trời cũng khác ở đông tây. Vì có hiện thực, thì cũng có viễn mơ. Nếu trôi qua vùng tâm thức của siêu nhân thì sẽ trở thành huyền thoại.

Như huyền thoại trong chốn thiền môn thì có: “Bát Cơm Hương Tích, chén Trà Tào Khê, ngồi Thuyền Bát Nhã, ngắm Trăng Lăng Già”. Không biết ai đã có đủ hạnh duyên đó, để thưởng thức hương vị siêu nhiên? Nhưng có lẽ với anh Tuấn thì, hình như đã có một lần khi anh kể: “Có một lần viếng thăm quê hương của Phật, vượt qua bao thử thách vẫn cố gắng làm tròn tâm nguyện là được ngắm nhìn cả hai vầng nhật nguyệt. Và anh đã thấy: “Núi non vẫn nằm đó, cây cỏ còn đó, mỏm đá hình chim thứu vẫn đứng đó: Đã bao lần mặt trời từng mọc lên đã chiếu sáng ngọn núi thiêng nầy sau những đêm tối? Ai đếm cho hết, ai cất công ghi lại cho kham? Nhưng có một điều tôi đoan chắc: mặt trời kia chưa bao giờ ngưng tỏa sáng trên đỉnh núi Thứu nầy.” (trang 66).

Và anh đã gặp: “Một nhóm hành hương có bốn người có nguồn gốc từ bốn quốc gia khác nhau, họ cùng hẹn nhau đến núi Thứu. Đểm lạ là họ muốn đến ngủ để thưởng trăng trên vùng trời linh thiêng của chư Phật chư Tổ. Và không phải họ chỉ muốn đến đây để thưởng trăng, họ muốn đến đây để dốc lòng cầu nguyện, tụng kinh, thiền tọa, tu tập... Mỗi người cầu nguyện một cách. Có khi họ cùng lúc tụng kinh lớn tiếng bằng bốn loại ngôn ngữ khác nhau.” (trang 68).

Bước thứ tư: Duyên. Lần nầy mới thật là hạnh duyên khi đến “Đạo Tràng”, anh kể: “Nhân một buổi trưa ghé vào thư viện của trung tâm tu học Viên Giác. Gặp sư cô Liễu Pháp thật vui và dễ thương (sư cô là sinh viên du học đang theo học chương trình Master đại học Gaya và đang tạm trú tại Viên Giác). Câu chuyện dẫn đến chi tiết các thánh tích, các cuộc hành hương, rồi đến việc đảnh lễ xá lợi Đức Phật, về khóa tu xuất gia gieo duyên tại trung tâm Viên Giác nầy trong vài tháng tới. Sư cô nói cũng đã giúp nhiều cư sĩ xuống tóc gieo duyên ở thánh địa. Nói chuyện một hồi, tự nhiên bà xã tôi quay sang hỏi nhỏ tôi: “Hay là kỳ nầy mình hỏi sư cô nhờ giúp giùm chuyện xuống tóc gieo duyên, anh nghĩ sao?”...(trang 103).

Thật là “Được lời như mở tấc lòng”... nên anh đã nhờ sư cô liên hệ và giới thiệu với chùa Tích Lan để thỉnh sư đến tháp Đại Giác làm lễ xuống tóc. Sau đó về chùa cúng dường trai tăng, cũng như tặng quà cho 15 em thanh thiếu niên đang ở đây. Và được vị sư trụ trì hứa khả với giờ hẹn ngày mai lúc 9 giờ. Tất cả chuẩn bị đầy đủ và sáng sớm ra điểm hẹn chờ, nhưng đã quá giờ rồi mà sư vẫn chưa đến!. Chợt thấy một hội chúng khoảng 30 vị lạt ma, họ dựng nhanh một pháp tòa gồm nhiều pháp khí và họ chờ đợi một việc gì đó?

-Sư cô Liễu Pháp hỏi tôi: “Chắc có điều gì trục trặc ở chùa Tích Lan đây? Thường thì sư đúng giớ lắm mà. Hay là mình nhờ quý lạt ma nầy xuống tóc giúp, chú nghĩ sao?” “Dạ”, tôi cũng đã thầm mong được vậy.” (trang 108).

Và anh đã nhờ người đi thưa thỉnh, nhưng bị từ chối ngay ! Sư cô muốn thử thêm thời vận một lần nữa, liền đến chắp tay cung kính bạch Ngài. Nhưng Ngài cũng lắc đầu. Sư cô nói: “Lần nầy cô chú phải đích thân sang cầu Ngài đi, có thể Ngài từ bi hứa khả.” Tôi cũng nghĩ thế, thì bà xã tôi đã đứng bật dậy ngay, đi thẳng đến bên Ngài thủ tòa và chắp hai tay lạy phủ phục xuống. Chúng tôi chưa kịp thưa thỉnh gì cả thì Ngài đã cười và gọi vị lạt ma công văn của pháp hội lại và nói gì đó. Vị lạt ma nầy dịch lại là họ không mang dao kéo theo thì làm sao xuống tóc cho chúng tôi được... Thưa, chúng tôi có mang sẵn dao kéo theo đây, và giải thích cặn kẻ. Ai nấy đều vô cùng hoan hy...” (trang 109).

Bước thứ năm: Bát sửa Sujãtã. Kể chuyện nàng Su-jãtã ở trong ngôi làng cùng tên với cô. Thường hay vào rừng để cúng dường các vị đạo sư. Nàng chợt thấy một vị Sa môn nằm bất tỉnh dưới một gốc cây, nhìn dáng vẻ Ngài như một vị thần, nàng quỳ xuống khấn nguyện và lấy sửa trong bát nhỏ giọt vào miệng vị Sa môn kia. Ngài dần dần tỉnh lại, và sau đó hàng ngày nàng đều mang sửa đến cúng dường cho đến ngày Ngài thành chánh quả dưới cội Bồ Đề. Thật là một đại ân nhân của Phật giáo thế giới, vì nếu không có người thôn nữ ấy phát tâm cúng dường, thì không biết lịch sử Phật giáo có hiện diện hay không?

Nhân việc nầy, anh Tuấn đặt câu hỏi: “Có lactose trong bát sửa của nàng thôn nữ Sujãtã ấy không ? Rồi luận bàn về việc nầy thấy cũng rất hữu ích. Khiến tôi nhớ lại trước đây một người bạn kể rằng, mỗi lần uống sửa anh ta đều bị đầy hơi, tiêu chảy. Đi khám bác sĩ không tìm ra bệnh, chợt bác sĩ hỏi: anh có uống sửa không? Trả lời có. Ông ta giải thích có một số người cơ thể họ không tiêu thụ kịp lượng đường của sữa (lactose) nhất là những người ở xứ nóng. Và khuyên anh ta nên uống các loại sửa lactosefrei. Đây có thể nói là một đề tài về y học phổ thông rất có giá trị.

Bước thứ sáu: Cõi tịnh. Chắc nhiều người đã quen với nếp sống văn minh của người Âu Tây, nên đến hành hương tại Ấn Độ cũng gặp phải những điều bất ưng. Nhất là cảnh vào nhà vệ sinh cứ cảm thấy mùi hôi phảng phất mãi trong đầu. Không thể nào xóa đi được cái cảm giác cấu uế ấy. Riêng anh Tuấn thi: “Nghĩ hoài không xong nên tôi phải tìm đến Ngài Xá Lợi Phất. Tôn giả từng giảng cho tăng chúng thời ấy về ý nghĩa của cấu uế. Ngài dạy: Có bốn hạng người trên đời. Hạng có cấu uế mà không tự biết; hạng có cấu uế và thật biết mình có cấu uế; hạng không cấu uế nhưng không tự biết; hạng không cấu uế và biết mình không cấu uế. Tôn giả lại dạy rằng, hạng người có cấu uế mà lại không biết mình có cấu uế là hạng người hạ liệt. Hú hồn cho tôi! Lúc trước thì có khi ở trong xóm hạ liệt, bây giờ thì đã cắt hộ khẩu rời khỏi khu vực ấy”. (trang 136).

Bước thứ bảy: Học hạnh bố thí. Chuyện kể các đoàn hành hương khi đến Bồ Đền Đạo Tràng, thường hay dừng chân vài ba ngày để nghỉ ngơi, chiêm bái lễ lạy nơi Phật thành đạo linh thiêng và thăm viếng các chùa, tự viện tại thánh địa nầy. Và sau đó là công việc phát quà cho người nghèo. Người dân Ấn thì họ quá nghèo, mà người xưa thường nói: “Bần cùng sinh đạo tặc”. Ai cũng muốn nhận nhiều hơn, chưa kể đến những “tổ chức ảo” để đánh lừa khách hành hương!

Còn đối với người bố thí thì lại mang nhiều tâm phân biệt khác nhau, nên việc bố thí cũng đầy nhiêu khê. Thành ra anh đã hướng đến các câu chuyện xưa trong kinh điển để tiện thể học tập. Chuyện thứ nhất là: “Bà già cúng đèn” trong A Xà Thế Vương Thọ Quyết Kinh. Hai là: Chuyện vua Lương Võ Đế và Tổ Bồ Đề Đạt Ma bên Trung Hoa. Ba là: Chuyện Đại Đức Kusalachitta một vị sư Tích Lan đã nguyện đem tuệ giác làm ngọn đèn soi sáng cho bước chân non dại của tuổi trẻ tại nơi thánh địa của Phật, bằng công hạnh bố thí Pháp vì trong tất cả các phương tiện bố thí, thì bố thí Pháp là thù thắng, là tối thượng nhất.

Bước thứ tám: Đến Bồ Đề Đạo Tràng không phải chỉ để tìm Phật. Kể lại chuyện gặp một tượng Phật rất đặc biệt là không ngồi trên một tòa sen, mà lại tọa trên một cái bục như bó cỏ, nệm rơm. “Tôi thấy tượng Phật nầy quá gần gủi, quá thân quen. Cảm tưởng như đức Phật đang bước xuống khỏi tòa, đến gần tôi để trao cho tôi một ngọn đuốc và bảo tôi, con hảy thắp đuốc lên mà đi...(trang 166).

Bước thứ chín: Trên đỉnh Dungeshwari và Pico de Brandama suy niệm về con đường khổ hạnh: Nhân một lần đi tham quan ngọn núi lửa Pico de Bandama ở Tây Ban Nha, anh cảm thấy rợn người khi nhìn xuống. Thấy cảnh sống chết đang hiện hữu từng sát na trong những sinh vật trên trái đất nầy. Và rồi hôm nay anh nghĩ đến con đường khổ hạnh của Thái tử Tất Đạt Đa, đi xuất gia cho đến ngày Ngài thành đạo Chánh Đẳng Chánh Giác dưới gốc cây Bồ Đề. Ban đầu thì Ngài nghĩ rằng, cuộc sống trong cung vàng điện ngọc đầy thú vui nhục dục. Quá nuông chiều thân xác của mình nên tâm không thấy an lạc. Nên Ngài đã thực tập theo các đạo sĩ tu khổ hạnh... Và trải qua sáu năm trong rừng già, Ngài thấy thân mình càng ngày càng tiều tụy, nhưng vẫn chưa tìm thấy sự giải thoát và giác ngộ. Một buổi sáng Ngài rời đồi Dungeshwari và hướng về làng Bakraur, trên đường đi Ngài đã kiệt sức nằm ngã quỵ bên gốc cây ở làng ấy. Tại đây Ngài nhận bát sữa của nàng thôn nữ Sujãtã dâng cúng. Khi tỉnh lại Ngài xuống sông Ni Liên Thuyền tắm gội sạch sẽ rồi đến cội Bồ Đề ngồi tham thiền. Cho đến một hôm Ngài chứng được sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền... Ngài chứng quả Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bước thứ mười: Chuyện hai Ông Đá. Kể lại sự tích của hai vị Bồ Tát hộ pháp. Vị thứ nhất là đại đế Asoka tên Việt gọi là A Dục Vương. Xuất thân là một vị vua tàn bạo, độc ác nên được gọi là Candasoka. Ông đã từng xuất quân đánh chiếm nước Kalinga chiến thắng nhanh chóng, nhưng đã để lại một chiến trường đẩm máu với hàng trăm ngàn người chết và mấy trăm ngàn người bị bắt làm nô lệ...! Nhưng sau đó không lâu thì xẩy ra một biến chuyển vô cùng đặc biệt là, trong lúc còn đang lẫy lừng trên ngai vàng thì nói theo ngôn ngữ nhà thiền Ngài “hoát nhiên đại ngộ”. Ngài quy y theo Phật và gìn giữ các giới cấm nên được gọi là Dharmasoka. Ngài đã cho xây dựng các trụ đá và khắc lên những sắc dụ, mang ý nghĩa như các giới cấm cho hàng Phật tử do đức Phật chế ra. Mong đem lại một đời sống hạnh phúc cho toàn dân, cũng như tôn trọng sự sống của mọi loài sinh vật khác... Nhưng những sự kiện ấy vẫn còn trong huyền thoại, vì các di tích bị chôn vùi dưới lòng đất, cũng như thế hệ sau nầy không đọc được cổ ngữ! Cho đến năm 1831, sau gần hai mươi thế kỷ sau Asoka, có người đã lần theo dấu vết đế khai mở sự thật. Đó là ông Sir Alexander Cunningham xuất thân một vị tướng lãnh, được gởi sang Ấn Độ, nhận nhiệm sở tại Calcuta. Ông cùng đồng nghiệp James Prinsep bắt đầu quan tâm đến việc nghiên cứu về khoa học và khảo cổ học tại đây...

Bước thứ mười một: Bò ơi, cứ ăn cỏ! Nhận dịp đến thành phố Bà La Nại, một buổi sáng được người hướng dẫn viên khách sạn đưa đến sông Hằng để ngắm mặt trời mọc. Đường đi luồn lách trong các xóm lao động là dịp anh chứng kiến nếp sinh hoạt thực sự của xã hội Ấn Độ được thu nhỏ. Trên đường gặp những chú bò đang rúc đầu vào đống rác để kiếm thức ăn. Mà rác của cái xứ sở nghèo mạt rệp nầy thì kiếm đâu ra thức ăn. Khiến cho anh chạnh lòng thương cảm đến những chú bò được được tôn vinh là “Thần”, nhưng lại sinh ra trong một hoàn cảnh tối tăm như thế nầy! Rồi anh nghĩ đến thân phận của muôn loài, muốn thoát khỏi cảnh bi thảm nầy thì cần thắp lên một ngọn đuốc, ngọn đuốc trí tuệ của đức Như Lai.

Bước thứ mười hai: Nghe đâu đó quanh đây âm hưởng của Tagore. Trong những bước chân tìm về chân như, bổng dưng thấy bàng bạc trong không gian hình bóng của một vĩ nhân. Một thiên tài của văn học thế giới là thi hào Tagore, người đầu tiên Á châu nhận giải Nobel Văn học năm 1930. Nhưng đối với Phật tử thì lòng ngưỡng vọng không chỉ có thế, mà còn kính ngưỡng một tấm lòng và đức tin. Theo giáo sư Krishna Kripalani viết một tiểu sử bằng tiếng Anh về Tagore rằng:“Tagore vô cùng kiêu ngạo, suốt đời ông chưa hề quỳ lạy một người hay hình tượng nào. Thế nhưng Tagore nuôi lòng kính trọng sâu sắc với Đức Phật ở Bồ Đề Đạo Tràng Bodh Gaya, Saranath và những nơi thiêng liêng khác của đạo Phật. Ông bày tỏ điều đó với tình cảm sâu sắc: “Tôi là một đệ tử của đức Phật, quy y vì trí tuệ của Ngài, tôi vô cùng xúc động vì cảm thấy được gần gủi Ngài.” (trang 262).

Bước thứ mười ba: Taj Mahal – Đã qua rồi thời hoàng kim ấy. Ngôi đền được vinh danh là “Kỳ quan thế giới nầy” đã qua một thời hoàng kim, hay đã qua rồi một huyền thoại đau thương, chất chồng lên người dân Ấn. Đầy dẫy những chuyện phi nhân, những việc vô đạo, mà trớ trêu thay bây giờ “người hướng dẫn du lịch” lấy cái lịch sử bi thảm ấy để tôn xưng là “biểu tương của tình yêu muôn thuở” để trở thành một kỳ quan, thì khi nghĩ đến đúng, sai cũng khó phân biệt !

Bước thứ mười bốn: Chuyện ba con khỉ của Thánh Gandhi. Khi đến căn phòng lưu niệm của Thánh Gandhi anh đã thấy: “Kế bên chiếc bàn viết nhỏ và thấp có hinh ảnh ngộ nghĩnh đập vào mắt tôi ngay. Trên một cái bục nhỏ màu trắng có đặt một tượng nhỏ tạc ba con khỉ bịt mắt, bịt tai, bịt miệng...” (trang 290). Và anh nhớ lại những nơi trước đây anh đã đến và thấy cũng có hình ảnh nầy. Mỗi nơi giải thích theo một cách khác nhau. Tại Âu châu thì: “Nghe, nhìn và làm thinh, nếu bạn muốn sống bình yên (yên thân)”. Tại Á châu thì “Khổng tử dạy cho đệ tử: “Cái gì không hợp lẽ thì không nhìn, không hợp lẽ thì đừng nghe, không hợp lẽ thì đừng nói, không hợp lẽ thì đừng làm.” (trang 291). Rồi anh nghĩ đến lời dạy của Đức Phật con đường đưa đến hạnh phúc, an lạc là: Bát Chánh Đạo..

Bước thứ mười lăm: Dư âm. “Thường sau những cuộc đi, dù đi thăm, đi du lịch ngắn hay những chuyến đi dài ngày, lúc quay về tôi có thói quen ngồi yên lặng để nghĩ về cái “không gian và thời gian còn đọng lại” trong ký ức mình sau các chuyến đi ấy. Để rồi một ngày kia, mình sẽ đáp một chuyến tàu đi thật xa và thật dài ngày, đi đến tận cuối trời.” (trang 306).
gioithieusach_VanCongTuan_2
Tác giả Nguyên Đạo Văn Công Tuấn (bìa phải)

Lời kết: “Hạt nắng Bồ Đề” là ghi nhận từng bước hành hương và tấm lòng mong cầu tu học mà anh Văn Công Tuấn đã thực hiện. Những nơi anh đến, những thắng tích anh thấy, những cảnh giới tâm linh anh đã cảm nhận, những triết lý về nhân sinh quan anh đã nghe, nhận định về văn hóa Phật giáo mà anh đã học. Tất cả đều được anh ghi lại bằng một lối văn giản dị, trong sáng. Một tác phẩm rất có giá trị về lãnh vực tâm linh cho những ai mong muốn đi tìm thế giới bình an.

Sách có thể đặt mua qua các nhà sách trên mạng Internet hay liên lạc trực tiếp với tác giả qua Email. [email protected].

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/03/2024(Xem: 1434)
Nhân Ngày Quốc tế Phụ nữ, (8/3/2024) một ngày quan trọng để tôn vinh những đóng góp to lớn và đa dạng của phụ nữ đối với xã hội, mỗi năm Liên Hợp Quốc thường chọn một chủ đề nhằm tập trung vào những vấn đề cụ thể và thúc đẩy sự tiến bộ đối với quyền của phụ nữ và bình đẳng giới, Thường chủ đề hàng năm thường nhấn mạnh việc chấm dứt bạo lực đối với phụ nữ, thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ trong khoa học và công nghệ, quyền kinh tế, hoặc bình đẳng giới trong lãnh đạo và quyết định.
28/02/2024(Xem: 1700)
Trong cuộc sống ngày nay, giữa rất nhiều những bộn bề lo âu, giữa thật giả lẫn lộn, con người dường như mất đi rất nhiều niềm tin, mất đi nhiều những giây phút để tìm cho mình một sự bình lặng trong cuộc sống, bởi suy cho cùng, sự cộng hưởng giữa nguyên nhân chủ quan và khách quan, đó là “môi trường áp lực và sự phức tạp của con người” khi hợp lại, nó sẽ trở thành lý do để người ta dễ dàng hoài nghi và buông ra những lời cay độc, nuôi dưỡng tâm tính muốn triệt hạ lẫn nhau nếu có ai đó gán chân mình. Người ta dễ dàng hằn học đấu tố nhau từ ngày này qua ngày khác và xem đó như một phần sự sống, dường như không gian tĩnh lặng và thấu cảm trở nên chật hẹp trong ánh mắt người đời.
28/02/2024(Xem: 1293)
Lâu lắm rồi hai tháng nay con không được thấy hình ảnh Mẹ Tâm Thái, hôm nay thầy Nguyên Tạng gửi hình Mẹ chuẩn bị đón Xuân Tết quê nhà, thấy Mẹ tươi vui con biết rằng Mẹ vẫn khỏe, vẫn an lạc từng giờ, từng phút, con mừng lắm. Nhìn Mẹ Tâm Thái treo những chiếc lồng đèn đỏ trên cành mai vàng đã điểm những nụ hoa vừa hé nhụy, con biết rằng đó là do bàn tay Mẹ đã săn sóc, đã tỉa cành, chăm bón cho hoa nở đúng ngày đầu của một năm mới, con biết đó là cách Mẹ chúc phúc cho mọi người, những chiếc lồng đèn đỏ xen lẫn màu vàng của hoa Mai hòa quyện vào nhau làm cho thêm phần rực rỡ. Rực rỡ như tâm của các bà Mẹ Việt Nam chứa đầy sự thương yêu, chăm sóc cho đàn con cháu.
24/02/2024(Xem: 2848)
Bạn ơi, Do sự tiến bộ vượt bực của y khoa. Ngành phẫu thuật như một bà tiên huyền diệu. Biến người xấu thành người đẹp dễ dàng. Mắt một mí biến thành hai mí. Da ngăm ngăm biến thành da trắng nõn nà. Lông mày chổi xể biến thành lông mày cong vút.
22/02/2024(Xem: 1434)
Tôi lấy tựa đề này vì tôi thích ý tưởng của Nam Lê khi anh đặt tên cho chương đầu tiên trong quyển sách của anh có tên là ‘The Boat’ (Chiếc Thuyền), một quyển sách đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và đoạt được nhiều giải thưởng văn học ở Anh, ở Úc và ở Mỹ. Chương sách đầu tiên đó được tác giả đặt một cái tên khá dài: ‘Love and Honor and Pity and Pride and Compassion and Sacrifice’ (Tình Yêu và Danh Dự và Thương Hại và Kiêu Hãnh và Tình Thương và Hy Sinh).
21/02/2024(Xem: 1305)
Cuộc đời của mỗi người ai cũng có cho riêng mình một vùng trời ký ức, chỉ là một đời sống bình dị thôi, nhưng lưu lại và đọng sâu trong trí nhớ. Giữa cuộc sống bộn bề ở nơi xứ người, có thể khiến người ta quên đi rất nhiều thứ. Nhưng chắc chắn rằng, tận sâu trong một góc của trái tim, luôn có hình ảnh quê nhà và hình bóng của Mẹ của cha. Nhớ những con đường dẫn vào nhà, trở về với những điều thân thuộc, về cùng với Mẹ bữa cơm chiều .....Và ký ức của tuổi thơ trở về .
07/02/2024(Xem: 1520)
Ngược dòng thời gian năm 1984, tôi viết quyển sách đầu tiên ‘Chìa Khóa cho người Tỵ Nạn’ dành cho những người tỵ nạn Đông Nam Á, giúp họ giữ vững niềm tin và hiểu biết tường tận hơn về tôn giáo của mình để đối đầu với các hành động có hậu ý của các nhà truyền giáo Ki tô muốn họ cải đạo. Sau đó vài năm, tôi viết thêm vài mục với lời tựa mới là ‘Thực Tiễn’. Bây giờ sau 10 năm, quyển sách lại được ‘tái sanh’ lần thứ ba với tựa mới ‘Kẻ Sống Lang Thang trên Bờ Biển’. Tôi đã thay tên mới, tên mà tôi cảm thấy thích hợp hơn cả. Từ trước đến nay, tôi luôn thích đi bộ dọc theo bờ biển nhìn sóng biển đưa vào đủ thứ thập vật: vỏ sò, đá cuội, gỗ mục, v.v.. . Đây là một lối nhìn khác về cuộc sống, mở ra cho thấy những điều không ngờ tới, rút ra được những bài học, tự hỏi ta có thể biến thành hữu dụng, những gì mà người khác cho là vô dụng
31/01/2024(Xem: 4674)
Hello có nghĩa Xin chào Goodbye tạm biệt, thì thào Whisper Lie nằm, Sleep ngủ, Dream mơ Thấy cô gái đẹp See girl beautiful I want tôi muốn, kiss hôn Lip môi, Eyes mắt ... sướng rồi ... oh yeah! Long dài, short ngắn, tall cao Here đây, there đó, which nào, where đâu
27/01/2024(Xem: 1479)
Phần này bàn về các cách dùng Trì Trì, mlồi/mlô, chiem thành (~ Chiêm Thành/NCT) từ thời LM de Rhodes và các giáo sĩ Tây phương sang Á Đông truyền đạo. Đây là lần đầu tiên cách dùng này hiện diện trong tiếng Việt qua dạng con chữ La Tinh/Bồ (chữ quốc ngữ), điều này cho ta dữ kiện để xem lại một số cách đọc chính xác hơn cùng với các dạng chữ Nôm cùng thời hay sau đó. Nhân tiện nhìn rộng ra và bàn thêm về tên gọi Chàm, Chăm và *Lâm (trong quốc hiệu Lâm Ấp). Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là các tài
14/01/2024(Xem: 1458)
Một buổi sáng, trên đồi hoang vu với tinh mơ còn vương chút nắng mới, những cánh hoa khép mình điêu tàn dưới bình minh tràn đầy nhựa sống. Tuy nhiên, cũng có những nụ hoa mới hé nở đang mơn trớn với thanh khí của đất trời giữa bao la thiên biến. Bên kia vòm trời, mây vẫn bay cho những cuộc mộng tàn phai trong từng phút giây sinh diệt. Con bướm đa tình cũng vờn dưới nắng mai giữa hoa tàn nguyệt tận của kiếp đời lưu biến. Sự sanh diệt của hiện tượng vạn hữu vẽ nên một bức tranh muôn màu cho thiên thu bất tận. Cái huyền diệu của cuộc đời hầu như phô diễn trùng trùng trước thiên di tuyệt náo. Khung trời mới của trăm nay hay nghìn năm về lại tắm gội dòng biến hiện giữa ngàn thu tuế nguyệt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]