Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sau mùa tuyết rơi

07/01/201711:21(Xem: 3002)
Sau mùa tuyết rơi

Nui Phu Si (4) 

SAU MÙA TUYẾT RƠI

 

                                                               Sau mùa tuyết đổ tơi bời ấy

                                                                                  Rừng nhú chồi xanh, thắm sắc hoa.

 

 

Khi ngọn gió chớm đông thỉnh thoảng thổi qua những cụm rừng trong và ngoài thành phố, nhất là những vùng Bắc và Đông Bắc Mỹ, những chiếc lá diễm màu chín mộng cuối thu cũng đã lần lượt trở về cội xưa, tiếp theo qua những cơn gió hối hả, để lại cái cảnh cây đứng trơ cành khẳng khiu giữa bạt ngàn sương khói, tựa như những dãy san hô khổng lồ trên mặt đất, trên núi đồi, như báo hiệu mùa đông đang đến và rồi đã đến,  còn có những cơn mưa cuối thu xối xả như dành một ít nước dinh dưỡng cho cây, cho cỏ, cho muôn hoa vào những tháng ngày giá băng tuyết phủ.

 

Mùa đông bắt đầu từ tháng 12 cho đến hết tháng 2, có khi cái lạnh vẫn còn đeo đẳng đến trung tuần tháng 3 mới dịu và ấm dần.  Sự vận chuyển từ sanh-hoá-tiêu-tàn của 4 mùa, trông như có tuồng sắp đặt qua sự biến dịch tự nhiên, điều nầy tự nơi con người chỉ biết cảm nhận, thưởng thức trong cái vô cùng huyền ảo, mầu nhiệm của đất trời, của thiên nhiên vạn vật.

 

Những ngày mùa đông tuyết rơi, trông như choàng lên không gian sắc màu xam xám, hay trắng đục lạnh lẽo và u tịch của tuyết. Những vẻ đẹp kỳ ảo mơ màng ấy, đã gợi lên không biết bao nhiêu cảm hứng, những tư duy và lẫn chút nhọc nhằn, tê tái của con người, trong thời gian tuyết rơi ngập ngụa tạo thành một lớp trắng dầy khắp cả đường phố, sân vườn, trên mái nhà, nhất là trên những cành cây trông như những cành thuỷ tinh lung linh trong không gian.

 

Tuyết rơi trắng lạnh, tuyết làm nên sắc màu diễm ảo, nhưng rồi tuyết cũng phải tan theo dòng chảy một khi mặt trời vượt thoát khỏi lớp mây mù, khung trời quang đảng, khí trời ấm áp dần lên, để rồi trong thơ Haiku đã phải buông câu hỏi, như muốn níu lại nhũng gì tuyết đã đến :

 

“Trên đám cây sa thảo

Dưới bóng hàng thông

Tuyết nằm diễm ảo

Có cách nào giữ lại

Cho tuyết đừng tan không ?”

 

Sự tuần hoàn của tuyết là tan chảy, nó không tồn tại, giống như bao hiện tượng sự vật khác, thì sự nắm lại, sự giữ lại chỉ tạo nên, góp vào ý niệm vui đùa mỏng manh tạm bợ

 

nơi cuộc sống vô thường bất định nầy. Thế nhưng, đây cũng là môt nốt nhạc, một ấn phím vào mỗi tâm thức ruỗi dong của con người, của chúng sanh, để nhận ra, để giác ngộ biết rõ rằng : tính chất phù phím, bọt bèo, tan hợp, không ta, không của ta luôn diễn bày khắp trong tam giới, nếu như có sự chấp thủ, từ hỷ tham, thì đây cũng chính là nguồn phát sinh những tội nghiệp, khổ đau và phải chịu trôi lăn xuống lên trong sanh tử.

 

Đồng thời, với cái nhìn khác cũng từ nơi dòng thơ Haiku nầy, chúng ta thấy :

 

“Lớp tuyết băng

Phủ kín thảm cỏ mùa đông

Một con hạt trắng

Nấp mình trong bóng tối

Trắng tinh.”

 

Lớp tuyết băng được kết tinh từ khí, từ hơi trong không gian vô tận nầy, và ở đây một khi nó được chạm vào nơi cõi đất, nơi vườn rừng, nơi núi sông.v.v... Tức thì những nơi ấy đã được diệt trừ không còn  những vi khuẩn, những ký sinh, những nhiễm ô độc hại, chúng không thể tồn tại và phát triển trong thời gian hiện hữu của tuyết. Chính vì thế, hình ảnh con hạt cho dù có nấp trong bóng tối bên thảm cỏ mùa đông, nhưng vẫn hiển hiện trắng tinh bên sắc màu và công dụng của tuyết. Bởi vì, nó được đồng thể thanh tịnh, trong sáng, tinh sáng từ nguồn tâm giải thoát, vô nhiễm.

 

Cùng thế ấy, ngay trong thời Đức Phật cũng đã có lần Ngài trả lời với một vị thiên qua câu hỏi như sau :

 

“Vật gì trói buộc đời ?

Vật gì dẫn hành đời ?

Do đọan trừ pháp gì ?

Mọi triền phược đoạn diệt ?” 

 

Sau đó được Đức Phật cho biết;

 

“Chính Hỷ trói buộc đời

Tầm Cầu dẫn hành đời

Do đoạn trừ Khát Ái

Mọi triền phược đoạn diệt”.

                                                                                                  Kinh Tương Ưng S.i.39.

 

Chính do sự chấp nhận, tìm kiếm và vui chịu mọi thoả mãn bắt đầu từ lòng gian tham, sân giận, sai lầm để rồi đưa đến cạnh tranh, chiếm đoạt, tranh chấp bằng lời, bằng ý và cuối cùng là cuộc đấu tranh bằng hành động, diễn ra bao nhiêu tàn hại khốc liệt, oán thù,

 

tạo tác sự chia rẽ, những tật đố phỉ báng, những hiềm hận chống phá.v.v... Bao nhiêu điều ấy đưa đến kết quả khổ đau đoạ xứ địa ngục ngay trong hiện tại, không những đời

nầy, mà còn những đến đời sau.

 

Thế nhưng, nếu biết dừng lại, bằng ý niệm tư duy chơn chính, quán chiếu thấy ra mọi sự tà tham, tà tư duy, việc làm bất chánh đem lại tổn hại cho mình và người, mà các bậc Thánh hay người có trí không thể chấp nhận. Vì vậy, có lần Đức Phật khuyên chư đệ tử nên tu tập để đưa đến kết quả lợi ích an lạc như sau :

 

“ Ta không thấy một pháp nào khác, nầy các tỷ kheo, lại đưa đến bất lợi lớn, nầy các tỷ kheo; như tâm không có tu tập. Tâm không có tu tập, nầy các tỳ kheo; đưa đến bất lợi lớn”.

 

Trái lại, Ngài dạy tiếp :

 

 “ Ta không thấy một pháp nào khác, nầy các tỷ kheo, lại đưa đến lợi ích lớn, nầy các tỷ kheo; như tâm có tu tập. Tâm có tu tập, nầy các tỷ kheo; đưa đến lợi ích lớn.”

                                                                                                                Kinh Tăng Chi I.

 

Như vậy, ngang qua lời dạy trên của bậc Đạo sư, chúng ta có thể hiểu rằng; nhờ có sự tu tập, hành trì pháp, hoan hỷ trong pháp mà các bậc Thánh chứng ngộ, đạt được an tịnh lạc, không còn khổ đau, chấm dứt mọi bất thiện pháp, để đem lại an lạc hạnh phúc ngay trong hiện tại. Đến đây, chúng ta đọc lại lời dạy của Bồ tát Shantideva (Tịch Thiên) :

 

 “Tất cả việc làm đều cốt mang lại nguồn vui khó mua được bằng tiền bạc, bởi thế ta hãy nhân thiện hành của mọi người mà hưởng thú vui tuỳ hỷ”

                                                                                                       Nhập Bồ Tát Hạnh, 77.

 

Tóm lại; Sau mùa tuyết rơi, không gian trong sạch, môi trường trong sạch, những chiếc lá tàn thu đã làm nên phân chất cho các loại cây, các loại cây cỏ nhú lại mầm xanh, các loại hoa nẩy lên nụ biếc để đem lại sắc hương cho đời, tạo thành một bối cảnh sạch đẹp tươi mát muôn màu muôn vẽ.

 

Cùng thế ấy, đối với người đệ tử Phật, theo dòng thời gian sống và tu tập, cần phải biết ưa thích pháp, thường thân cận nghe và tích tụ pháp, quán chiếu và hành trì pháp của bậc Thánh, để không còn những ác bất thiện pháp, những cấu uế nơi tâm, những tầm cầu bất chính, những khát vọng thường tình thấp kém, hầu đem lại lợi ích lớn cho bản thân, và cho cả mọi người.

 

                                                                             Chùa Kỳ Viên, South Dakota, 1. 2017.

                                                                                              MẶC PHƯƠNG TỬ.

                                                                                       

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/09/2010(Xem: 7780)
Văn Tế Thiên Thái Trí Giả Tác giả Đại Sư Tuân Thức Việt dịch: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm *** 1. Nhất tâm đảnh lễ Thiên Thai Trí Giả trong núi Đại Tô tu Tam Muội Pháp Hoa Tâm tâm tịnh thường lại qua pháp giới Như mặt nhật trên không chẳng trụ không Ba ngàn thật tướng tức khắc viên thông Tám vạn trần lao đều đồng chân tịnh. Xưa hội kiến Linh Sơn còn hoài niệm Nay toàn thân bảo tháp thấy rõ ràng Nếu chẳng cùng sư Nam Nhạc tương phùng Ai biết được tướng thâm sâu thiền định?
01/09/2010(Xem: 2685)
Vườn hoa Phật Giáo mênh mông, với nhiều sắc thái thành muôn màu rực rỡ. Mỗi đóa hoa đều có sắc có hương, để thành vẻ đẹp đặc thù của Phật Giáo. Chúng ta thấy đại dương rào rạt bao la không bờ bến, nhưng giọt nước nào cũng mang vị mặn của muối. Chánh Pháp của Đức Như Lai vô lượng vô biên, nhưng pháp nào cũng đều mang hương vị của giải thoát.Mỗi Vị Tôn Đức hoằng pháp đều có một phong cách riêng, có những tư tưởng nhận định riêng. Vị nào còn trẻ khoẻ thì thích đi hoằng pháp các nơi.
28/08/2010(Xem: 2355)
Du Hôn (truyện ngắn của Nhật Hưng)
27/08/2010(Xem: 2743)
Tuy không phải là bạn thân nhưng tôi quen biết anh ấy từ lâu, thời còn ở trung tiểu học. Anh ấy thuộc một gia đình khá giả, bố mất sớm, thông minh học giỏi. Ra trường, làm việc cho một công ty lớn, được cấp nhà ở, và ai cũng có thể thấy ngay anh là một người thành đạt, có một tương lai xán lạn và là niềm hãnh diện cho gia đình. Nhưng…những chữ nhưng thường làm dang dở cuộc đời. Có nhiều chuyện thật oái oăm và không thể lường trước được có thể xảy ra làm thay đổi một cuộc đời. Và những chuyện không ngờ đó một hôm đã xảy ra, đã đưa anh vào cảnh tù tội một cách oan ức.
17/08/2010(Xem: 12039)
Lâu nay tôi thường cùng các thi văn hữu trao đổi với nhau những bài thơ, câu đối như là một thú vui tao nhã. Về thơ thì tôi vừa mới tập hợp thành tác phẩm Mưa Hè (nhà xuất bản Hồng Đức - quý hạ 2013). Riêng về câu đối, với tính chất riêng của nó, tôi tập hợp thành tập Thiền Lâm Ứng Đối hợp tuyển này, bao gồm một số câu đối trước đây đã được in và phát hành dưới dạng “Lưu hành nội bộ”, và một số câu đối đã được làm trong thời gian sau này. Những câu đối trong tập cũ in lại có hiệu đính, phần nhiều ở câu dịch nghĩa. Đa số những câu đối có nhân duyên từ các chùa trong tỉnh, ngoại tỉnh và một số chùa ở nước ngoài nhờ làm để trang trí. có câu còn ghi chú rõ, có câu tôi không còn nhớ làm cho chùa nào, ở đâu. Kính xin chư Tôn đức cùng quí chùa hoan hỉ.
10/08/2010(Xem: 5100)
Diễn văn của luật sư Georges Graham Vest tại một phiên tòa xử vụ kiện người hàng xóm làm chết con chó của thân chủ, được phóng viên William Saller của The New York Times bình chọn là hay nhất trong tất cả các bài diễn văn, lời tựa trên thế giới trong khoảng 100 năm qua.
16/07/2010(Xem: 12521)
Vừa qua, được đọc mấy bài thơ chữ Hán của thầy Tuệ Sĩ đăng trên tờ Khánh Anh ở Paris (10.1996) với lời giới thiệu của Huỳnh kim Quang, lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác đang bị đầy đọa một cách phi pháp trong cảnh lao tù kể từ ngày 25.3.1984, lòng tôi trào dậy nỗi bất bình đối với những kẻ đang tay vứt "viên ngọc quý" của nước nhà (xin phép mượn từ này trong lời nhận xét của học giả Đào duy Anh, sau khi ông đã tiếp xúc với thầy tại Nha trang hồi năm 1976: "Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam ") để chà đạp xuống bùn đen... Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một tăng sĩ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt... Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.
08/07/2010(Xem: 3550)
Ngày Về Nguồn được tổ chức lần đầu tiên vào năm 2007 tại chùa Pháp Vân, Canada đã khiến nhiều người bàn tán xôn xao. Họ xôn xao có lẽ một phần bỡ ngỡ trước danh từ Về Nguồn, vì một số không được cái may mắn có nguồn để về. Họ không cảm thấy rung động khi nghe câu ca dao: Cây có gốc mới xanh cành tươi ngọn Nước có nguồn mới biển cả sông sâu
28/06/2010(Xem: 25287)
Ba môn vô lậu học Giới Định Tuệ là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc. Muốn đến Niết-bàn an lạc mà không theo con đường này thì chỉ loanh quanh trong vòng luân hồi ba cõi. Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ. Nhưng Giới học mênh mông, Định học mêng mông, Tuệ học mênh mông; nếu không nắm được “Cương yếu” thì khó bề hiểu biết chu đáo, đúng đắn. Không hiểu biết đúng đắn thì không sinh tâm tịnh tín; không có tâm tịnh tín thì sẽ không có tịnh hạnh, như vậy, con đường giải thoát bị bế tắc. Như một người học hoài mà vẫn không hiểu, tu hoàí mà vẫn không cảm nhận được chút lợi ích an lạc nào.
28/06/2010(Xem: 18978)
Bản dịch Việt Bích Nham lục được thực hiện với một tấm lòng tôn kính, cảm phục tài đức của giáo sư Wilhelm Gundert (12. 4. 1880-3. 8. 1971). Vì W. Gundert đã giới thiệu tường tận về tác phẩm độc nhất vô nhị này nên dịch giả người Việt hạn chế tối đa những lời dư thừa, chỉ đề cập đến nguyên tắc dịch, một vài nét đặc biệt cũng như kĩ thuật được áp dụng trong bản dịch Việt:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567