Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Thân Khôn khọn (khỉ) - phần 6A

22/01/201621:51(Xem: 5381)
Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Thân Khôn khọn (khỉ) - phần 6A

Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp - Thân Khôn khọn (khỉ) - phần 6A

Nguyễn Cung Thông

[email protected]

Trong lịch sử văn hóa TQ (Trung Quốc), phải công nhận là các học giả Hán xưa kia rất chịu khó viết lách và đã để lại nhiều tài liệu phong phú cho hậu thế. Tuy nhiên, các chủ đề được ghi nhận qua chữ Hán không có nghĩ là chúng có xuất xứ từ TQ, mà đa số từ quá trình giao lưu văn hóa ngôn ngữ theo dòng thời gian - càng lâu bao nhiêu thì lại càng khó truy nguyên và xác định nguồn bấy nhiêu. Thí dụ như chữ Phật 佛, nghĩa cổ nhất là người giúp (phụ tá, dùng như chữ bật/bột 弼) trong Kinh Thi, nhưng khi đạo Phật truyền đến Trung Nguyên thì Phật lại mang nghĩa mới chỉ tôn giáo (Phật giáo). Nghĩa mới này hầu như hoàn toàn thay đổi nghĩa cổ của Phật trong văn hóa Hán cổ. Đặc biệt là tiếng Việt chúng ta vẫn duy trì hai dạng Bụt và Phật1, phản ánh các giai đoạn tiếng Phạn (kinh Phật) nhập vào Á Châu: Bụt là âm cổ gần với động từ Phạn budh- có nghĩa là biết, ý thức được ... Tiếp vị ngữ (hậu tố/suffix) -a thêm vào động từ budh- cho ra dạng buddha बुद्ध nghĩa là đã giác ngộ (past participle, động từ chỉ quá khứ), người đã giác ngộ (dịch là giác giả). Nếu thêm a- vào trước budh- hay là thêm tiền tố (prefix) thì ta có dạng a-budhá अबुध là ngu đần; Các dạng liên hệ khác là bodhi बोधि (phiên âm HV bồ đề 菩 提, tiếng Nhật bodai hay satori ) là biết lẽ chân chính (dịch nghĩa là chính giác 正覺), bauddha बौद्ध giữ trong trí óc (tinh thần) ... Khi soạn Thuyết Văn Giải Tự/TVGT, cuốn tự điển từ nguyên đầu tiên của chữ Hán, học giả Hứa Thận thời Đông Hán đã xếp chữ dự vào bộ tượng. Đây cũng là lần đầu tiên 540 bộ thủ xuất hiện và trong bộ tượng chỉ có hai chữ là tượng và dự 豫 (vui) là voi (một dạng ký âm của tiếng phương Nam nhập vào tiếng Hán) - một loài thú to lớn và nổi tiếng ở Nam Việt2

TVGT biên hiệu 6103 豫:象之大者 Dự : tượng chi đại giả

TVGT biên hiệu 6102 象:長鼻牙,南越大獸,三秊一乳,象耳牙四足之形 Tượng :trường tị nha , Nam Việt đại thú , tam niên nhất nhũ , tượng nhĩ nha tứ túc chi hình.

Hứa Thận 許慎 đã ghi nhận khá chính xác vào thời Đông Hán nghĩa của các chữ này, thời sau và đến nay dự và tượng lại thuộc vào bộ thỉ (con heo/lợn, một sai lầm đáng chú ý). Trong phạm vi bài viết nhỏ này, vài trường hợp tiêu biểu trên như Bụt/Phật, voi/vui (dự) cho ta một góc nhìn rộng hơn để đặt vấn đề với nguồn gốc tên gọi 12 con giáp khi tiếng Việt còn duy trì các dạng âm cổ hơn như *tlu (tru, trâu) so với Sửu, mẹo (mèo) so với Mão, *kui (cúi) so với Hãi/Hợi, ngựa so với Ngọ, *mvei dê so với Mùi (Vị) ...v.v...

Phần này viết về chi thứ 9 Thân, truy nguyên nguồn gốc của chữ Thân không cho thấy một liên hệ gì đến loài khỉ trong văn hóa ngôn ngữ Hán, tuy nhiên khi xem lại các dạng âm cổ của Thân và tiếng Việt thì ta có vài tương đồng và gợi ý thêm về nguồn gốc Việt (Nam) của tên gọi 12 con giáp. Các chữ viết tắt trong bài BK (Bắc Kinh), TVGT Thuyết Văn Giải Tự (khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận (TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161). Dấu hoa thị * dùng để chỉ âm cổ phục nguyên (reconstructed sound). Không nên lầm số thứ tự chỉ phụ chú với thanh điệu thường ghi sau vần (âm tiết).

 

1. Chữ Thân

1.1  Xem lại các dạng khắc/vẽ và viết của chữ Thân trên giáp cốt văn, kim văn, tiểu triện, khải thể ... Ta thấy ngay là nguồn gốc chữ Thân không dính líu gì đến loài vật nào cả, có thể là hình tia điện hay chớp ngoằn nghoèo (cho nên hợp với bộ thị thành chữ thần 神, hay hợp với bộ vũ thành chữ điện 電 ...) - trích từ trang http://www.zdic.net/z/1f/zy/7533.htm  hay http://www.chineseetymology.org/CharacterEtymology.aspx?submitButton1=Etymology&characterInput=%E7%94%B3

Than-khon-khon-000

Cũng như các chữ dự (vui voi), Phật (Bụt) bên trên - ta hãy tìm xem các dạng âm cổ hơn của Thân. Âm Thân phù hợp với các cách đọc âm Hán trung cổ (Đường, Tống) và với biến âm s(h) > t(h) thường gặp trong tiếng Việt như shī thi/thơ, shí thập, shì thích, shù thụ, shāo thiêu, shuǐ thủy ...v.v...  Không thấy dạng tín hay tấn (khứ thanh, thời Chánh Vận) của Thân trong tiếng Việt nên có khả năng là âm Thân đã hiện diện trong tiếng Việt ít nhất từ thời trung cổ (Đường Tống). Chữ thân 申 (thanh mẫu thẩm 審, vận mẫu chân 真, bình/khứ thanh, khai khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

失人切 thất nhân thiết (TVGT, ĐV, QV, T, LTV) - TV ghi bình thanh

失人反 thỉ nhân phản (LKTG)

式神切 thức thần thiết (NT, TTTH)

升人切,音身 thăng nhân thiết, âm thân (VH, CV, TVKC 集韻考正, TVi, LTCN 六書正𨫠)

思晉切,音信 tư tấn thiết, âm tấn (TV, LT, VH, CV, TVi) - TV ghi khứ thanh

試刃切 thí nhận thiết (TV, LT)

TNAV ghi vận bộ 真文 chân văn (bình dương, không thấy ghi khứ thanh)

CV ghi bình thanh và cùng vần 申 真 伸 信 呻 紳 身 娠 柛 (chân thân thần)

CV cũng ghi khứ thanh và cùng vần 信 訊 訙 迅 阠 汛 申 (tín tấn *thấn)

審人切,音身 thẩm nhân thiết, âm thân (CTT)

...v.v...

 

Giọng BK bây giờ là shēn xìn so với giọng Quảng Đông san1, các giọng Mân Nam Bao'an] sin1 [Dongguan] sin1 [Hong Kong] sin1 [Kwangtung] s'in1 [Hailu] s'in1 [Siyan] siin1 [Meixian] shin1, giọng Mân Nam/Đài Loan sin1, tiếng Nhật shin và tiếng Hàn sin.

1.2  Chính cách đọc Thân so với Thần (Thìn 辰 chi thứ năm, tiếng Nhật đọc Thân và Thần/Thìn là shin, tiếng Hàn là sin) cũng như Tý so với Tỵ (Tị) khiến cho ta có lý do không đặt vấn đề về nguồn gốc tên gọi 12 con giáp là từ các tiếng Nhật hay Hàn cổ đại, các ngôn ngữ này không có thanh điệu nên không phân biệt giữa các chi Thân và Thần (Thìn), Tý và Tỵ (Tị) -  tuy rằng các văn hóa ngôn ngữ Nhật và Hàn đều có giao lưu với văn hóa Hán qua bao ngàn năm (đồng văn) cũng như Văn hóa ngôn ngữ Việt. Như vậy thì Thân có tương quan nào với tên gọi con khỉ tiếng Việt?

 

2. Một dạng âm cổ của Thân là khôn hay *khj(u)on

Để xem âm cổ của Thân có hình dạng ra sao, một cách tìm là tra các cách đọc khi chữ Thân được dùng làm thành phần hài thanh (thanh phù). Thí dụ như các chữ hiếm sau đây: chữ Thân hợp với bộ hòa để cho âm sân (sửu nhân thiết/KH trích Thiên Hải), chữ Thân hợp với bộ khuyển để cho âm sân (si lân thiết/TV - nghĩa là cuồng si). Một chữ dùng bộ thổ hợp với chữ Thân rất đáng chú ý là chữ khôn. Chữ khôn 坤 (thanh mẫu khê 溪 vận mẫu hồn 魂 bình thanh, hợp khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết

苦昆切 khổ côn thiết (TVGT, QV)

苦魂切 khổ hồn thiết (NT, TTTH)

枯昆切,音髡。地也 khô côn thiết, âm khôn - địa dã (TV, VH, LT, CV) - "địa dã" ghi từ thời TVGT cho đến các thời TV, LT ...

TNAV ghi vận bô 真文 chân văn

枯昆切,悃平聲 khô côn thiết, khổn bình thanh (TVi, CTT)

區倫切 khu luân thiết (TVi)

巨員切,音拳 cự viên thiết, âm quyền (TVi, KH)- CTT ghi âm quyền

音囷 âm khuân (CTT)

...v.v...

Giọng BK bây giờ là kūn so với giọng Quảng Đông kwan1 và các giọng Mân Nam 客家话:[台湾四县腔] kun1 [梅县腔] kun1 [陆丰腔] kun1 [客英字典] kwun1 [宝安腔] kun1 [客语拼音字汇] kun1 [东莞腔] kun1 [沙头角腔] kun1 [海陆丰腔] kun1,  giọng Mân Nam/Đài Loan khun1, tiếng Nhật kon và tiếng Hàn kon. Một dạng âm cổ phục nguyên của khôn là *kʰuən hay * kʰjun (so với khon tiếng Việt). Âm HV khôn đọc rất khác với Thân 申, theo người viết có thể là một dạng âm cổ3 của Thân - thổ 土 nghĩa là đất rồi, nên chữ Thân bên phải khó mang cùng chức năng chỉ ý như vậy, dạng Thân hiện diện trong tiếng Việt rất lâu đời, khác với các dạng khuân hay quyền. Ngoài ra, TVGT ghi khôn là địa dã (chỉ đất), như vậy chữ Thân có khả năng là thanh phù - ý này khác với nhận xét của học giả Đoàn Ngọc Tài cho rằng khôn là chữ hội ý ("TVGT Chú"); điều này cũng thấy ghi trong tự điển  “形聲。從土,申聲  hình thanh, tòng thổ Thân thanh”  trang này  http://www.zdic.net/z/17/xs/5764.htm. Khôn còn là một quẻ (một trong bát quái) có mặt trong Kinh Dịch, phản ánh cách dùng từ thời cổ đại - càn khôn (trời đất) mở rộng nghĩa chỉ cha mẹ, vua tôi, trai gái, chồng vợ, âm dương, mặt trời và mặt trăng ...

 

3. Khọn là (con) khỉ tiếng Việt

Tiếng Việt xưa dùng khọn để chỉ con khỉ4, trích Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, trang 499 - Tome I - của cụ Huỳnh Tịnh Của (Imprimerie Rey, Curiol & Cie, SaiGon 1895):

Khọn n.           khỉ

Con khọn          id.

Làm tuồng mặt con khọn làm mặt khỉ ...

Làm con khọn  id. Làm chẳng nên sự gì (tiếng mắng)

Như vậy là ta có một dây nối âm cổ của khôn và khon. Tương quan của nguyên âm ô (khôn) và o (khon) khá phổ thông khi so sánh các cặp từ độc đọc, khốc khóc, lộc lọc, lô lò, bộ pho, nỗ nỏ (ná), nộn non, môn món, mỗi mọi, mô mọ, khố kho, hô hò, độ đo ...v.v... Sự khác biệt thanh điệu giữa khôn (bình thanh) và khọn (khứ thanh) có thể vì các âm này đã hiện diện trong tiếng Việt qua một thời gian rất lâu nên mang âm vực khác nhau như  墓 mộ mả mồ mô,  研 nghiên nghiền nghiện nghiến nghiễn, 箭 tiễn tên,  利 lị lãi lợi lời ...v.v...

Tóm lai. ta có cơ sở để đề nghị một khả năng là âm khôn có liên hệ với khọn (con khỉ), so với chữ và âm khôn 申 tiếng Hán không có một tương quan nào đến loài khỉ của 12 con giáp. Điều này cho ta đặt lại vấn đề nguồn gốc của tên gọi 12 con giáp, mà tiếng Việt rất gần gũi với tên gọi các loài vật tương ứng, không phải là từ văn hóa Hán như nhiều người đã lầm tưởng qua bao ngàn năm nay và từ Tây sang Đông. Ngoài ra, các dữ kiện khác gợi ý ở trên như cách gọi Bụt (Phật) hay dự (vui - voi) cũng cho thấy liên hệ ngữ âm xưa và nay còn bảo lưu trong tiếng Việt, tương tự như trường hợp tên gọi 12 con giáp vậy. Đương nhiên là cần nhiều dữ kiện ngôn ngữ và khách quan khác như từ khảo cổ, phân tích DNA, lịch sử ... để ta có thể khẳng định nguồn gốc tên gọi 12 con giáp cho chính xác hơn nữa. Có lẽ sẽ không ‘nghịch lý’ khi nhìn rộng ra và ngẫm nghĩ sâu xa về ký ức tập thể của tiền nhân qua câu

Trăm năm bia đá thì mòn

Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ

 

4. Phụ chú và phê bình thêm

Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo APA hay MLA vì bao gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu và tác giả để bạn đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính xác. Bài này đánh số 6A vì theo sau bài viết có chủ đề tương tự (đánh số 6) trong loạt bài "Nguồn gốc Việt (Nam) của tên 12 con giáp" - xem chi tiết trang http://www.gio-o.com/NguyenCungThong12ConGiap6.htm (2006) hay http://doremon360.blogspot.com.au/2009/07/bai-17-tong-hop-12-con-giap.html (2009) ...v.v...

 

1) Tham khảo thêm loạt bài viết "Bụt hay Phật?" cùng tác giả (Nguyễn Cung Thông) trên các trang mạng như http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=2108:bt-hay-pht-phn-1&catid=71:ngon-ng-hc&Itemid=107  hay http://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=13770 …v.v…

 

2) Tham khảo thêm các bài viết như "Ta nói tiếng Việt mà ta không biết" cùng tác giả (Nguyễn Cung Thông) trên các trang mạng như http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=2271:ta-noi-ting-vit-ma-ta-khong-bit&catid=71:ngon-ng-hc&Itemid=107  hay  http://www.daophatngaynay.com/vn/van-hoa/truyen-thong-tap-tuc/9347-Ta-noi-tieng-Viet-ma-ta-khong-biet.html ...v.v...

 

3) Vì không biết rõ cách đọc cổ nên dễ rơi vào trường hợp gọi khôn 坤 là loại chữ hội ý ...v.v... GS William G. Boltz là tác giả cuốn "The origin and early development of the Chinese writing system" NXB New Haven (Connecticut, Mỹ, 1994). Ông phủ nhận hoàn toàn loại chữ hội ý 会意字 / 會意字 trong cấu trúc chữ Hán (sđd); lý do đơn giản là thành phần HT đã từng có cách đọc khác hơn (cổ) mà ta không biết (hay quên/mất đi theo thời gian). Thí dụ như chữ an 安 thường được đưa ra làm thí dụ cho loại chữ hội ý với bộ miên 宀 (nóc nhà) và chữ nữ 女 (đàn bà): đàn bà ở trong nhà thì mọi chuyện đều bình an (yên ổn). Thật ra chữ nữ đã từng đọc như *an qua các chữ như 妟 yàn BK (Unicode 599F, yên lặng - Thuyết Văn ghi: 妟 an dã 安也), 奻 nuán BK (Unicode 597B, cãi nhau) và 姦 jiān BK (gian HV): đây là các dạng biến âm (ngạc hoá) của *an/ yên. Ta có thể thêm các chữ hiếm với gốc âm cổ *an như nghiên 蔅 yán BK (xinh đẹp, như nghiên 妍), yển 匽 (dấu diếm, diếm là dạng ngạc cứng hóa) và một số chữ HV yển *an dùng chữ 匽 làm thành phần HT, yển yăn BK (cá sủ, cá mẫn). Học giả Li Fang Kuei phục hồi một dạng âm cổ của Thân là *khrin cũng cho thấy phụ âm đầu có thể từng là phụ âm cuối lưỡi (bài viết "Some Old Chinese loan words in the Tai languages" Harvard Journal of Asiatic Studies: 332-342).

 

4) Tác giả Jean-François Génibrel ghi khọn là con khỉ trong cuốn "Dictionnaire annamite français" (deuxième édition, Imprimerie de la Mission à Tân Định 1898), chụp lại trang 366:

Than-khon-khon-001

Gustave Hue cũng ghi khọn là con khỉ trong cuốn "Dictionnaire vietnamien chinois francais", Imprimerie Trung Hòa (trang 457).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/09/2020(Xem: 18891)
Thư gởi Chư Thiện tri thức trong và ngoài nước..nhân Tết Nhi Đồng 2020 (HT Thích Tuệ Sỹ)
24/09/2020(Xem: 8390)
Thật là một đại duyên cho những ai là Phật tử tại gia như tôi lại được nghe lời chỉ dạy vừa tâm tình của Sư Phụ Viên Minh vào ngày thứ bảy của khoá thiền khoá 20 (20/9/2020) tại tổ đình Bửu Long như sau : " Ai cũng cho Thầy là người " ba phải "vì Thầy thường trích dẫn những ý tưởng của các Tông phái khác , nhưng đúng ra phải gọi Thầy là "người chục phải "vì ở mỗi Tông phái nào Thầy đều nhìn thấy những điểm hay, tốt và vì vậy Thầy chưa bao giờ phân biệt tông phái nào cả chỉ là nhập gia tuỳ tục thế thôi , vô ngại ...
21/09/2020(Xem: 11883)
Một trong những điểm đặc thù từ giáo pháp của Đức Phật chính là tinh thần Trung đạo - không rơi vào cực đoan khổ hạnh ép xác hay thú hướng dục vọng. Biện chính giáo pháp để làm lộ rõ con đường Trung đạo cũng là một phương thức hoằng pháp. Có thể sự biện chính chỉ là quan kiến cá nhân và đôi khi đi xa hơn vấn đề cần biện chính, nhất là những biện chính liên quan đến lát cắt của một phần tổng thể văn bản. Dẫu vậy, toàn bộ nội dung bài viết vẫn hướng đến mục đích làm sáng tỏ thêm con đường Trung đạo, tránh sự hiểu nhầm đáng tiếc đối với những Phật tử sơ cơ. Nguyệt San Giác Ngộ xin trân trọng giới thiệu bài viết đến với quý độc giả. NSGN Bài “Quan điểm của Phật giáo về vấn đề kinh tế” của Hòa thượng Tinh Vân (Phước Tâm dịch, Nguyệt san Giác Ngộ số 189, tháng 12-2011, trang 36), có một đoạn viết:
29/08/2020(Xem: 2504)
Khi được một bằng hữu tặng cho một quyển sách hay và quý, bạn vui vẻ nhận lấy, khen sách trình bày đẹp, đề tài lạ lẫm hấp dẫn, cảm ơn, rồi nhập vào hàng hàng lớp lớp những sách báo trên kệ tủ của mình, nói là từ từ khi nào rảnh rang sẽ đọc sau, rồi quên bẳng luôn, không sờ đụng đến lần nào nữa. Nếu vị bằng hữu đó mà biết được bạn đã đối xử với món quà tặng văn hóa, món quà tinh thần và nghĩa tình kiểu như vậy, chắc vị đó sẽ buồn lắm. Làm người khác buồn, là bạn đã mang tội. Trong trường hợp vị bằng hữu đó không hề hay biết gì hết, bạn vẫn mang tội, chứ không phải vô tội. Tội đó là tội xem thường.
27/08/2020(Xem: 5423)
Kính chiếu yêu ma bài viết của Cư Sĩ Huệ Hương (ở Melbourne, Úc Châu) Do Phật tử Diệu Danh (Hannover, Đức Quốc diễn đọc) Mười năm về trước khi đọc " CỬA TÙNG ĐÔI CÁNH GÀI " của Sư Ông Làng Mai Thích Nhất Hạnh tôi vẫn không hề nghĩ đến có ngày mình phải dùng kính chiếu yêu này ... không phải cho người khác bên ngoài mà chính là dùng để soi rọi vào những con ma đang ẩn núp trong rừng tâm của tôi quá chằng chịt và rậm rạp nơi mà tập khí được chôn vùi và đã trở nên hoang dại đến nỗi rất khó để tháo gở được những rễ dây đã bám sâu trong đất Tâm này
14/08/2020(Xem: 5389)
Thuở trung học, tôi rất yêu môn toán. Những con số cộc lốc khô khan nhưng rõ ràng 1 với 1 là 2 đi vào đầu tôi êm ái nhẹ nhàng hơn những bài văn thơ trữ tình, ướt át. Tôi rất dốt, thường đội sổ môn Việt văn. Giữa khi một đề bài Thầy, Cô đưa ra: “Hãy tả tâm trạng cảm giác của em khi một ngày dự định đi chơi mà bị mưa không đi được„ Bạn tôi, đứa “sơ mi„ (nhất điểm) luận văn khi phát bài luôn được đọc cho cả lớp nghe, viết: “Thế là hôm nay em phải ở lại nhà vì một trận mưa như trút nước. Mưa càng lúc càng nặng hạt, dai dẳng suốt từ chiều hôm qua. Bầu trời vẫn còn u ám, xám xịt, không có dấu hiệu của một trận mưa sắp dứt, một ngày quang đãng. Em buồn nằm nhà, cuộn mình trong chăn nghe bên ngoài mưa rơi tí tách, gõ nhịp trên máng xối„ Thì bài của tôi: “Đùng...đùng...tiếng sét nổ vang. Nhìn ra bên ngoài bầu trời đen thui rồi nước ở đâu từ trên máng xối đổ xuống ào ào. Nước mưa chứ ai. Ghét dễ sợ. Không được đi chơi như dự định rồi. Buồn thỉu buồn thiu„ Bài viết cộc lốc khô cứng như cục đá. Ng
13/08/2020(Xem: 10633)
Ngày anh ra đi, tôi không được biết. Một tuần sau, Xuân Trang gọi điện thoại từ Mỹ báo tin anh đã mất. Tôi lên đồi thông Phương Bối, chỉ nhìn thấy anh ngồi trên bàn thờ với nụ cười châm biếm, ngạo nghễ mà tôi thường gặp mỗi lần lên thăm chị Phượng và các cháu. Tôi được biết gia đình anh Nguyễn đức Sơn qua sư cô Chân Không. Dạo ấy, khoảng năm 1986, sư cô có nhờ tôi cứ 3 tháng mang số tiền 100 usd lên cho gia đình anh. Tới Bảo Lộc tôi nhờ 2 người con của Bác Toàn dẫn tôi lên gặp anh. Trước khi đi, bác Toàn có can ngăn tôi: Cô đừng đi, đường lên Phương Bối khúc khuỷu, cây rừng rậm rạp khó đi, hơn nữa ông Sơn kỳ quái lắm, ông ấy không muốn nhận sự giúp đỡ, mà nếu có nhận, ông ấy không cảm ơn, còn chửi người cho nữa. Tôi mỉm cười: Không sao đâu, tôi chịu được mà! Đường lên Phương Bối khó đi. Chúng tôi lách qua đám tre rừng, thật vất vả. Cơn mưa cuối mùa và gió lạnh đang kéo tới, chúng tôi phải đi nhanh để kịp đến nhà ông Sơn, một nhân vật quái đản -theo lời nhận xét của gi
09/08/2020(Xem: 11781)
Là một nhà văn, một nhà thơ, một nhà báo, và là một người tuyên thuyết Phật pháp – trong vị trí nào, Vĩnh Hảo cũng xuất sắc, và nổi bật. Tài hoa của Vĩnh Hảo đã hiển lộ từ các tác phẩm đầu thập niên 1990s, và sức sáng tác đó vẫn đều đặn trải dài qua hai thập niên đầu thế kỷ 21. Vĩnh Hảo viết truyện dài, truyện ngắn, làm thơ, viết tùy bút, viết tiểu luận – thể loại văn nào anh viết cũng hay, cũng nổi bật hơn người. Giữ được sức viết như thế thực là hy hữu. Thể hiện nơi ngòi bút rất mực văn chương, Vĩnh Hảo chính là một tấm lòng thiết tha với đất nước, với đạo pháp, với con người. Tấm lòng đó hiện rõ trong từng hàng chữ anh viết, đặc biệt là trong 100 Lá Thư Tòa Soạn của Nguyệt San Chánh Pháp, là nội dung của sách này với nhan đề Lời Ca Của Gã Cùng Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]