Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bản lai vô nhất vật...

20/11/201407:40(Xem: 10926)
Bản lai vô nhất vật...
 
phapbaodankinh_luctohuenang

Tôi đã lớn lên cùng với những dòng Bát Nhã Tâm Kinh. Những lời sắc bất dị không đã nghe âm vang như tiếng mõ ban mai, như tiếng tim đập của những ngày vui và của những đêm buồn, như tiếng mưa rơi mái hiên trong những buổi chiều ngồi đọc thơ Nguyễn Du. 

 

Tương tự như thế, tôi cũng say mê Kinh Pháp Bảo Đàn, trong đó nhớ nhất là câu “bản lai vô nhất vật” -- trước giờ chưa từng có một vật -- những chữ này làm sáng rực những trang kinh, làm tràn ngập lòng tôi những niềm vui như trưa nắng sân chùa. Cho dù, thú thật, ngay cả từ thời thơ trẻ, hiểu chỉ lơ mơ, và tu chỉ dò dẫm.

Trong tận cùng, sau này tôi thấy, pháp Phật chỉ là “không để tâm dính vào bất kỳ một pháp nào,” nghĩa là, như Kinh Kim Cang nói, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.
Tôi tin Đức Phật dạy thiên kinh vạn quyển, chỉ nhằm đưa chúng sanh qua bờ giải thoát. Và khi tới bờ bên kia xong, bè nào cũng nên buông bỏ -- dù là bè Có, hay bè Không. Nhưng thực sự, Kinh Phật đã dạy, hễ dính chặt vào bè nào, cũng không qua nổi bờ bên kia.

Tuy nhiên, muốn qua sông, tất nhiên phải cần có bè. Chỉ nói chuyện bám vào bè mà bơi thôi, chớ không dám nói gì tới chuyện đứng trên bè đề hiên ngang vượt sóng qua sông. Bởi vì chúng ta mang trên người tập khí trăm kiếp nghìn đời, nay cơ may gặp Phật pháp, nếu sơ xẩy là bị cuốn theo dòng sinh tử liền.

Nhiều thập niên sau, tôi ngạc nhiên khi nhận ra một số người dị ứng với Bát Nhã Tâm Kinh và Kinh Pháp Bảo Đàn. Lý do, họ nói, vì không nằm trong Tạng Pali. Tất nhiên. Nhưng, tuyên thuyết lại lời Đức Phật có gì là không nên, nếu chúng ta có thể làm ngắn gọn hơn, dễ hiểu hơn, dễ tiếp cận hơn đối với một số độc giả?  

 

Tôi nghĩ, mình sẽ đọc lại, nhưng bản thân lại không có năng khiếu về ngôn ngữ. Tôi vẫn thán phục những người giỏi nhiều thứ tiếng, nhưng mình thì không thể như thế, vì riêng tiếng Việt, tự thấy học trọn cả đời vẫn chưa tới đâu. Do vậy, tôi chọn cách đơn giản hơn: tìm đọc bằng tiếng Anh; một phần vì, hiện nay đã có nhiều bản Anh dịch, và có thể đối chiếu với nhau. Thế là, tôi trở thành một học trò cặm cụi, gõ cửa nhiều vị thầy.

Điều thấy được là: Không có gì bí mật, Bát Nhã Tâm Kinh đã nằm sẵn trong Kinh Pali. Và đây là một dạng cô đọng của thiên kinh vạn quyển.

Một thời, tôi say mê đọc, say mê học, say mê ngồi thiền... và lúng túng giữa những rừng chữ nghĩa (Bây giờ, cũng lắm khi lúng túng, nhưng đỡ hơn, có lẽ). Trong cơ may nhiều thập niên trước, khi gặp hai vị thiền sư già, thế là, lại bị xô đẩy vào những trận đồ chữ nghĩa rất mực cô đọng, rất mực kiệm lời.

Thầy Tịch Chiếu nói rằng, phảỉ thấy Tánh trước rồi mới tu. Nhưng hỏi Tánh là gì, lại nói rằng nói là gì cũng đều không phải.

Vị sư đệ của Thầy  là nhà sư Thường Chiếu nói rằng phải bước lên sào cao trăm trượng, rồi bước thêm một bước. Nhiều năm sau, tôi nghĩ rằng như thế là phải tu giới định huệ cho tới đỉnh cao, rồi bước vào Tánh Không. Tôi tự nghĩ, phải chăng đó là buông xả hết? Hay, câu hỏi là, khi mang đủ thứ trăm công ngàn hạnh, làm sao leo tới đỉnh cao cho đặng? Vô số câu hỏi.

Sau này, khi vững tiếng Anh, tôi đọc sách của ngài Đạt Lai Lạt Ma và Ajahn Chah, và tôi nghĩ rằng thế là đã hiểu được hai nhà sư già mình có cơ duyên theo học hồi thơ trẻ (thú thật, cũng có phẩn là đoán, vì bản thân mình, tu tập chẳng phảỉ là siêu đẳng).

Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, có nói về hai cách tiếp cận. Một đi từ Có, và một đi từ Không -- nằm trong hai bài kệ.

Bài kệ của Tổ Thần Tú là:
Thân thị bồ đề thọ
Tâm như minh kính đài
Thời thời thường phất thức
Vật sử nhá trần ai

Bản dịch của Thiền Sư Thanh Từ:
Thân như cây bồ-đề,
Tâm như đài gương sáng.
Luôn luôn phải lau chùi,
Chớ để dính bụi nhơ.

Và bài kệ của Lục Tổ Huệ Năng:
Bồ đề bổn vô thọ
Tâm phi minh kính đài
Bản lai vô nhất vật
Hà xứ nhá trần ai.

Bản dịch của Thiền Sư Thanh Từ:
Bồ-đề vốn không cây, 
Gương sáng cũng chẳng đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính bụi nhơ?

Bản lai vô nhất vật... câu này đã theo tôi mãi nhiều năm. Xưa nay không một vật, xưa nay không một ai, xưa nay không một sắc, xưa nay không một thọ, xưa nay không một tưởng, và vân vân. Nhìn thấy thực tướng là không một vật, không một pháp, và không hề có một ngã tướng nào. Ngắn gọn, thế giới này vốn thật là tất cả những gì được thấy, những gì được nghe, những gì được cảm tri... đều là những gì hiện lên trong tâm, nghĩa là bất kỳ cảnh nào cũng là tâm.

Tuy nhiên, tâm lại không nằm ở bất kỳ nơi nào, dù là nơi mắt, nơi tai, hay nơi được thấy hay nơi được nghe. Chính nơi đây, tánh không đã và đang hiển lộ. Nơi tất cả những cái được thấy, những cái được nghe... là cái không đó hiển hiện, bao trùm, nối kết, y hệt như -- lời Thầy Tịch Chiếu thường dạy cho học trò, rằng tánh các pháp là bình đẳng, rằng bột vẫn là bánh, bất kể mọi loại bánh mặn ngọt cay chua; rằng vàng vẫn là nữ trang, bất kể xuyến thoa nhẫn vòng; rằng tánh sáng của gương vẫn rực rỡ bất động, bất kể mọi ảnh tròn vuông xanh đỏ tím vàng; rằng tánh ướt của nước vẫn nhuần thấm, bất kể mọi bọt sóng lớn nhỏ đục trong. Nơi đó cũng là vô thường, là vô ngã, là bất an. Chính cái không đó xuyên suốt các pháp, làm cho thế giới là một dòng chảy của vô thường, của vô ngã, của bất an. Không một pháp nào rời tâm, nhưng tâm không phải là bất cứ gì.

Nói khác, không một pháp nào rời không, nhưng cái không đó lại không phải là bất cứ gì. Tuyệt vời là như thế. Và chỉ từ cái chứng ngộ về không tánh này, từ bi chơn thực mới khởi lên, khi nhìn thấy mình và người đang cùng bị cuốn trôi trong dòng chảy của tánh không, trong dòng chảy của vô thường, của vô ngã, của bất an. Ngẩng đầu lên khỏi trang kinh, là thấy một thời tuổi trẻ bay đi, một đời người sắp tắt, và rất nhiều người bạn đã bị cuốn trôi qua đời khác.

Tôi đã sững sờ ngồi trước các trang kinh, và nhìn thấy những dòng kinh biến hẳn đi như dường chỉ còn là các trang giấy trắng, bất kể mọi người quanh mình đang tụng đều theo tiếng mõ... sắc bất dị không, không bất dị sắc.  

Có phải Đức Phật đã từng dạy rằng phải Thấy Tánh trước, rồi mới thuận tánh mà tu? Đúng vậy. Đức Phật đã dạy về vô thường, về vô ngã, về bất an.

Đúng vậy. Đức Phật cũng đã dạy “Bản lai vô nhất vật...” và Lục Tổ Huệ Năng chỉ tuyên thuyết lại lời Đức Phật -- với một cách  riêng.

Trong Tiểu Bộ Kinh, Sn 5.15, Đức Phật dạy rằng hãy  quán sát các pháp là không, rằng không hề có một ngã nào. Nơi kinh này, Đức Phật nói rằng Không chính là Vô Ngã.

Bài kinh “Mogharaja-manava-puccha: Mogharaja's Question” có đoạn ghi lời Đức Phật trả lời Mogharaja như sau:

“[Mogharaja]... Con tới với một câu hỏi: Phải quán sát thế giới như thế nào để không bị Thần Chết nhìn thấy?

[Đức Phật]...Mogharaja, hãy luôn luôn tỉnh thức, nhìn thế giới như là rỗng không, gỡ bỏ bất kỳ cái nhìn nào về ngã. Với cách như thế, con sẽ đứng trên và vượt qua cái chết. Người nào nhìn thế giới này như thế sẽ không bị Thần Chết nhìn thấy.” 

Như thế, trong bài kinh trên, chữ Không được hiểu như là không thấy cái gì là ngã. Khi quán sát tất cả thế giới này là Không như thế, ai nói đây không phải là Bát Nhã Tâm Kinh, không phảỉ là bản lai vô nhất vật?

Nơi một số kinh khác, Đức Phật đã nói chi tiết hơn, chỉ cách quán sát các pháp để thấy như thế. Dẫn trường hợp một kinh trong Tương Ưng Bộ, SN 35.85, kinh “Suñña Sutta: Empty,” lúc đó, ngài Ananda hỏi thế nào để nhìn thấy thế giới là rỗng không. Đức Phật trả lời rằng nên thấy mắt (nhãn) là không tự ngã, nhãn thức là không tự ngã, nhãn xúc cũng thế, và vân vân. Văn kinh này nghe âm vang như Tâm Kinh Bát Nhã.

Nơi đây, Việt dịch  theo bản Anh dịch của sư Thanissaro Bhikkhu như sau: “Kế tiếp, ngài Ananda tới gặp Đức Phật, đảnh lễ, ngồi một bên. Khi ngài ngồi, rồi nói với Đức Phật: “Bạch Đức Phật, thế giới này được nói là rỗng không, thế giới rỗng không. Như thế nào, thế giới là rỗng không?”

“Ananda, bởi vì nó không có tự ngã, không có bất cứ gì liên hệ tới một tự ngã. Do vậy, nó được  nói rằng thế giới này rỗng không. Và cái gì không có ngã hay không có bất cứ thứ gì liên hệ tới một tự ngã? Mắt không có một tự ngã, không có bất cứ thứ gì liên hệ tới một tự ngã. Sắc (Lời Người Dịch: forms, cái hiện ra với mắt tai mũi lưỡi thân ý)... Nhãn thức... Nhãn xúc cũng không có tự ngã, cũng không có bất cứ thứ gì liên hệ tới tự ngã.

“Tai (nhĩ) rỗng không... Mũi (tỷ) rỗng không... Lưỡi (thiệt) rỗng không... Thân rỗng không... Ý rỗng không, không có tự ngã nào, không liên hệ tới tự ngã nào. Niệm... Thức... Ý thức giới rỗng không, không có tự ngã nào, không liên hệ tới tự ngã nào. Do vậy, được nói rằng thế giới này là không.” 

Trong bài kinh trên, có gì khác với Bát Nhã Tâm Kinh? Có gì khác với câu bản lai vô nhất vật?

Như thế, Đức Phật đã dùng nhiều cách nói – khi nói ngắn gọn, khi nói chi tiết.

Như thế, Đức Phật có lúc nói ngắn gọn trong vấn đáp với chàng trai Mogharaja rằng hãy luôn tỉnh thức và nhìn thế giới như rỗng không,  có lúc nói chi tiết với ngài Ananda rằng hãy thấy mắt tai mũi lưỡi thân ý là rỗng không. Và có lúc, Đức Phật còn nói nhiều hơn nữa về pháp nhìn vào Tánh Không của các pháp.

Đó là trong kinh SN 22.95, Tương Ưng Bộ Kinh, bản kinh “Phena Sutta: Foam,” theo bản Anh dịch của sư Thanissaro Bhikkhu. Đức  Phật sẽ giáỉ thích rằng sắc chính là không, dụ như chùm bọt sóng (có phải, nói ngắn gọn là: sắc bất dị không?); rồi nói thọ chính là không, dụ như bọt nước; rồi nói tưởng chính là không, dụ như ráng nắng; tương tự với tưởng, hành, thức...

Kinh này rất dài, nên nơi đây sẽ chỉ một đoạn kinh, trích:
“Một lần, Đức Phật tới với những người dân thành phố Ayojjha bên bờ Sông Hằng. Nơi đó, Ngài nói với các sư: Các sư, giả như một chùm bọt sóng lớn đang trôi trên sông Hằng, và một người mắt sáng thấy nó, quán sát nó và khảo sát nó đúng pháp. Với người này -- thấy nó, quan sát nó & khảo sát nó đúng pháp – nó sẽ hiện ra là rỗng, là không, là không có gì hết: vì làm gì có cái gì trong chùm bọt sóng đó chớ? 

 

Cùng một cách như thế, một vị sư nhìn thấy, quan sát & khảo sát đúng pháp bất kỳ sắc nào trong quá khứ, tương lai, hay hiện tại; dù là trong hay ngoài; hiển hiện hay mơ hồ; bình dân hay tôn quý; gần hay xa. Đối với vị này – nhìn thấy, quan sát & khảo sát nó đúng pháp – nó sẽ hiện ra là rỗng, là không, là không có gì hết: vì làm gì có cái gì trong cái sắc đó chớ?” 

Thế rồi, trong kinh này, Đức Phật dạy tiếp rằng, sau khi nhìn thấy tất cả các pháp là không, người tu sẽ không dính gì tới sắc thọ tưởng hành thức nữa, và được giải thoát, “Sanh đã tận, thánh hạnh đã hoàn tất, việc đã xong. Không còn gì nữa trong thế giới này.

Sau khi nói như thế xong, cũng trong kinh này, Đức Phật nhắc lại rằng phải nhìn thấy sắc như chùm bọt nước, thọ như bọt sóng, tưởng như ráng nắng, hành như cây chuối (trong lõi cây chuối không có gì hết), thức như trò ảo thuật. 

 

Phải thấy rằng, kinh vừa dẫn viết: “[trong các pháp] vốn thật không có gì hết. Do vậy, các sư phải liên tục quán sát các uẩn suốt cả ngày và đêm, phải tỉnh thức, cảnh giác; phải buông bỏ mọi phiền não; phải tự lấy mình làm nơi an trú cho mình; phải sống hệt như lửa cháy trên đầu -- với khát vọng tu học không lui sụt.” Đó là những dòng chữ Pali của Bát Nhã Tâm Kinh, của Pháp Bảo Đàn Kinh... là sắc bất dị không, là bản lai vô nhất vật.

Tuy nhiên, chúng sinh lúc nào cũng dễ rơi vào bẫy của chữ nghĩa. Khi Đức Phật dạy rằng cõi này là khổ, là bất như ý, là bất an... chúng ta lại dễ vin vào chữ Có. Khi Đức Phật dạy rằng cõi này vốn thật là không... chúng ta lại dễ vin vào chữ Không. Thế là Đức Phật lại mệt nhọc giảỉ thích rằng chớ vin vào Có hay Không, nói rằng pháp Đức Phật dạy là trung đạo, xa lìa có và không, đừng dính vào một pháp nào hết.

Ngắn gọn: khi niệm khởi thì hãy thấy có niệm khởi, và khi niệm diệt xong thì hãy thấy là đang lặng lẽ nơi này; rằng khi thấy, chỉ là cái được thấy; rằng khi nghe, chỉ là cái được nghe. Và như thế, là xa lìa cả có và không.
Cụ thể, dẫn một bài kinh khác trong Tương Ưng Bộ, SN 12.15, nhan đề “Kaccayanagotta Sutta: To Kaccayana Gotta,” bản Anh dịch của sư Thanissaro Bhikkhu.

Lúc đó là ở thành phố Savatthi, Đại sư Kaccayana Gotta hỏi Đức Phật rằng thế nào là chánh kiến. Tức là muốn hỏi về cái nhìn chân chánh. Đức Phật trả lời rằng, trích dịch: “Sư Kaccayana, thế giới này bị nhìn như là đối cực, là có và không. Nhưng khi sự tập khởi của thế giới được nhìn với chánh kiến, người này sẽ không chấp vào ‘không.’ Khi sự đoạn diệt của thế giới được nhìn với chánh kiến, người này sẽ không chấp vào ‘có.’

“Sư Kaccayana, thế giới này bị buộc vào chấp thủ, quyến luyến và thiên kiến. Nhưng người nào không trụ vào bất kỳ một quyến luyến nào, không dính vào một kiến chấp nào, không thiên kiến hay không bị lôi kéo bởi cảm thọ nào; mà cũng không lưu giữ ‘cái tôi’ nào. Người này thấy rõ, không ngờ vực gì: khi khổ sanh, là thấy khổ sanh; khi khổ diệt, là thấy khổ diệt. Trong cái nhìn này, người này tự nhìn thấy, không dựa vào ai. Sư Kaccayana, như thế là chánh kiến.” 

Bởi vậy, Ngài Trần Nhân Tông mới có thơ rằng, hễ dính vào câu Có, câu Không... đều hệt như lấy tuyết làm nón, như lấy hoa làm giày, như ôm gốc cây đợi thỏ.

Thêm một câu hỏi, nếu phải xông xáo trong đời, trọn ngày thấy đủ thứ cảnh trước mắt và nghe  đủ thứ chuyện bên tai... làm thế nào có thể an trú trong tánh không? Hãy hình dung, bạn đang tham dự trong một lễ hội (có phải đời này là những chuỗi ngày lễ hội?). Không lẽ đi tìm một góc núi, một ven rừng... Đức Phật cũng đã dạy pháp ứng phó này, khi giữ tâm an trú trong tánh không giữa những xao động trong đời.

Nơi đây, chúng ta dẫn ra một kinh ở Trung Bộ, MN 121, nhan đề kinh là “Cula-suññata Sutta: The Lesser Discourse on Emptiness,” bản Anh dịch của sư Thanissaro Bhikkhu.

Lúc đó, Đức Phật tới thành phố Savatthi, nơi Đông Viên, trong lâu đaì của mẹ Migara. Ngài Ananada đảnh lễ Đức Phật, nói rằng có một lần, khi Đức Phật ở thị trấn Nagaraka, giữa những người Sakyan, có nghe Đức Phật nói, “Ta bây giờ an trú toàn phần trong tánh không.” Đức Phật nói đúng là thế, Ananda nghe  đúng là thế, “và bây giờ cũng như lúc đó, ta an trú toàn phần trong tánh không.”

Chúng ta có thể hình dung rằng, Đức Phật tới nơi nào cũng được tiếp đón cung kính, cho nên chung quanh là đông vô số kể. Thí dụ, như trong lâu đài của mẹ Migara, là có rất nhiều voi, ngựa, vàng bạc, người nam, người nữ... Vậy thì, làm sao an trú trong tánh không được?

Đức Phật nói: “Đúng vậy, Ananda, ngươi đã nghe đúng, học đúng, chú tâm đúng, nhớ đúng. Bây giờ, cũng như trước kia, ta an trú toàn bộ trong tánh không. Giả như lâu đài này của mẹ của Migara không có con voi nào, không có gia súc, không có con lừa nào, không có vàng bạc, không có đông đảo người nam và người nữ, và chỉ có một “cái có” thôi – đó là tính đơn nhất của tăng đoàn; ngay cả thế, hỡi Ananda, một vị sư – không chú tâm vào niệm về ngôi làng, không chú tâm vào người -- chỉ chú tâm vào tính đơn nhất của cảnh vườn hoang dã. Tâm người này có niềm vui, thấy sảng khoái, an trú trong niệm tưởng về cảnh vườn hoang dã.

“Người này quán sát rằng ‘Bất cứ xao động nào lẽ ra khởi lên dựa vào niệm tưởng về ngôi làng đã không khởi lên. Bất cứ xao động nào lẽ ra khởi lên dựa vào niệm tưởng về người đã không khởi lên. Chỉ có một chút xao động nhỏ này thôi: sự đơn nhất dựa vào niệm tưởng về cảnh vườn hoang dã.’ 

 

Người này nhìn thấy rằng ‘Pháp niệm tưởng này làm trống vắng niệm tưởng về ngôi làng. Pháp niệm tưởng này làm trống vắng niệm tưởng về người. Chỉ còn duy nhất một cái “có” nơi đây: tính đơn nhất dựa vào niệm tưởng về cảnh vườn hoang dã.’ Do vậy người này xem nó như trống vắng bất cứ những gì không ở đó. Bất cứ những gì còn lại, người này xem nó như hiện diện:  ‘Có cái này.’ Và do vậy, người này an trú vào không, thuận với thực tại, không dao động trong ý nghĩa nào, và tâm được thanh tịnh.” 

Tuần tự, Đức Phật giải thích, với cách như thế, người này rời bỏ niệm tưởng về cảnh vườn hoang dã, rồi chỉ niệm tưởng về tính đơn nhất của mặt đất phẳng (không có sông, suối, đồi... gì), rồi tới niệm tưởng về  tính vô tận của không gian, rồi tính vô tận của thức, rồi pháp không (nothingness),  rồi phi tưởng phi phi tưởng (Neither Perception nor Non-Perception), rồi tới pháp định không-đề-mục (Theme-Less Concentration), và kế tiếp là giải thoát (Release).

Có cách nào tóm gọn bài kinh này không?
Cuối bài kinh này, Đức Phật tóm gọn cho ngài Ananda rằng: “Vị sư này thấy rằng ‘Bất cứ xao động nào do duyên vào dục lậu... duyên vào sanh hữu lậu... duyên vào vô minh lậu, bây giờ không có mặt nơi đây. Và chỉ còn một chút xao động: do duyên vào lục nhập (mắt tai mũi...), duyên vào thân này. Sư này nhận ra rằng ‘Niệm tưởng này không có dục lậu... không có sanh hữu lậu... không có vô minh lậu. Và chỉ có một cái ‘có’ này thôi: duyên vào lục nhập, duyên vào thân này.’ 

 

Do vậy, sư này xem nó như trống vắng bất cứ những gì không có ở đó. Bất cứ những gì còn lại, sư này nhìn thấy nó là hiện hữu: “Có cái này.’ Và như thế, tâm vị sư này thâm nhập vào pháp không, thuận với thực tại, nghĩa chẳng sai lệch, thanh tịnh -- tối thắng và cứu cánh giải thoát... Do vậy, Ananda, ngươi hãy tự tu tập rằng: “Chúng ta sẽ vào và an trú trong tánh không, nơi đó là thanh tịnh, tối thắng và cứu cánh giải thoát.” 

Có một cảnh giác cần ghi nhận. Rằng trong khi tu học, khi tâm đã buông xả hết các pháp, tâm sẽ bất động và an trú được trong lặng lẽ thanh tịnh. Lúc đó, nếu quyến luyến cảnh giới thanh tịnh này, là hỏng.

Đức Phật cảnh giác trong Kinh Trung Bộ,  MN 106, tựa đề “Aneñja-sappaya Sutta: Conducive to the Imperturbable.”

Đức Phật nói với Ngài Ananda: “Vị sư này không quyến luyến cảnh giới lặng lẽ thanh tịnh đó, không hoan nghênh nó, không để bị buộc trong cảnh giới đó, thức của vị này không duyên vào nó, không chấp trước vào nó (không an trú trong nó). Ananda, không dính vào đâu hết, tâm vô sở trụ... thì mới hoàn toàn giải thoát.” 

Chỗ này, chúng ta lại thấy y hệt Kinh Kim Cang: Ngay cả khi tâm có chỗ trụ, dù là cảnh giới thanh tịnh nào đi nữa, cũng là hỏng. Như thế, cốt tủy là ‘bản lai vô nhất vật’ và ngay cả khi sống được với cái ‘không hề có một pháp nào’ như thế, cũng chớ nên dính chấp vào cái không này. 

 

Và như thế, ý nghĩa của Bát Nhã Tâm Kinh khi bác bỏ cả Tứ Đế (vô khổ tập diệt đạo), bác bỏ cả Lục Độ (vô trí, diệc vô đắc) chỉ là tuyên thuyết lại lời Đức Phật trong Kinh Trung Bộ MN 106, rằng tận cùng thì, chớ dính vào một pháp nào hết, rằng phải bước thêm một bước từ sào cao trăm trượng, rằng bè nào rồi cũng phải quăng bỏ thôi...

Nguyên Giác

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
27/05/2020(Xem: 3797)
Thế gian này hiện hữu trong mối tương quan tương duyên. “Cái này có nên cái kia có. Cái này không nên cái kia không.” Cõi này vì vậy có thiện mà cũng có ác, có tốt mà cũng có xấu. Biên tế giữa thiện và ác, tốt và xấu chỉ nằm trong đường tơ kẽ tóc của ý niệm, hay nói theo nhà Phật là một mống tâm. Cùng một hành động, một việc làm, một sự việc nhưng khác nhau xa lắc xa lơ ở tâm thiện hay tâm ác. Không cần phải suy nghĩ và tìm kiếm đâu xa, chỉ nhìn vào cuộc khủng hoảng đại dịch vi khuẩn corona đã và đang xảy ra trên toàn cầu thì cũng thấy rõ được điều đó. Đảng và nhà nước Cộng Sản Trung Quốc vì cái tâm âm mưu thao túng để làm bá chủ toàn cầu đã bất chấp đến sự nguy hại khôn lường của vi khuẩn corona phát xuất từ Vũ Hán nên giấu nhẹm lúc ban đầu. Sau khi để cho vi khuẩn này truyền nhiễm khắp thế giới rồi cũng vì cái tâm mưu đồ mà ra tay ban phát ân huệ cho những nước bị đại dịch bằng những viện trợ lấy có. Hành động sau này được TQ khoa trương như thể họ vì lòng vị tha mà ra tay cứu
27/05/2020(Xem: 5367)
Hoa Lan vốn là loài hoa đẹp vừa kiêu sa thanh thoát, tuổi thọ cao (thường trụ trong chậu những sáu tháng), hương thơm nhẹ nhàng được bao người trân quí dùng làm quà tặng nhau hay chưng tại các đại sảnh, trang thờ, phòng khách... Nhưng Hoa Lan ở đây, tôi muốn viết về là bút hiệu của cô bạn văn tên thật là Lan Hương ( hương của hoa lan), cái tên đúng là có sự an bài của định mệnh.
26/05/2020(Xem: 9534)
Đàn chim bay ngang phố. Xao xác tiếng cánh vỗ. Con quạ già trên nhánh cây hè phố ngước nhìn một lúc, rồi im lặng sà xuống đất, nhảy lò cò vài bước với một chân bị què, tiếp tục kiếm ăn. Phố im lạ thường. Những con đường vắng xe đã vơi mùi khói xăng từ những ngày trước. Lan tỏa đâu đây hương bạch đàn hòa lẫn với mùi nước cống vẫn ngày đêm chảy ngầm dưới lòng đất. Thỉnh thoảng có tiếng còi hụ của xe cứu thương băng ngang góc phố xa. Khách bộ hành mang khẩu trang chỉ chừa lại hai mắt ngầu đục sau gọng kiếng râm, không sao nhìn ra được vẻ đẹp tráng lệ của một bình minh tràn ngập nắng tàn xuân. Gió mai lành lạnh trong công viên thành phố. Ông già ngồi phơi nắng trên chiếc ghế gấp mang theo từ nhà. Hai vợ chồng trẻ khoác áo gió dắt chó đi bộ quanh bãi cỏ xanh. Một cơn gió mạnh thổi qua làm cho những hàng cây rùng mình buông lá úa. Giờ không phải mùa thu, cũng chưa vào hạ, mà lá vàng vẫn rơi lác đác, trông như những cánh bướm cải nhởn nhơ trong gió. Nhưng không, chỉ trong thoáng chốc, n
23/05/2020(Xem: 4132)
Trong buổi họp online sáng thú sáu 22/5/2020 vừa qua nhóm bạn Tây Phương của tôi trong Community tôi đã làm việc nhiều năm , các bạn ấy đã nhắc đến một điều mà có lẽ những ai bước vào thập niên thất thập cổ lai hy phải thầm tư duy và tôi không ngoại lệ..... Đó là điều trước đây báo chí Úc đã từng báo động “Australia is in the midst of a loneliness crisis, with many in our population experiencing a deficit of social connection.” . Kính xin phép được tạm dịch : Nước Úc đang ở vào giữa thời điểm của sự khủng hoảng về đơn chiếc lẽ loi cô độc mà phần lớn trong chúng ta nhận ra được một kinh nghiệm đó là do thiếu một sự liên hệ nối kết với xã hội , cộng đồng ... Nay từ khi cách giản xã hội do dịch Covid19 hoành hành , điều này lại càng phát triển mạnh hơn trong giới cao niên và có thể lấn vào địa hạt của thanh thiếu niên vừa mới tốt nghiệp trung học ...
21/05/2020(Xem: 4462)
Mùi hương từ hoa thơm cỏ nội, thông thường sẽ theo hướng gió mà bay đi, tuy nhiên cũng có một mùi hương đặc biệt, rất đặc biệt lan tỏa khắp nơi không theo chiều gió nào đó là mùi hương của loài hoa mang tên đức hạnh. Vâng, ở đây tôi muốn nhắc đến một vị có...mùi hương đó, chính là Ni Trưởng (NT) (bên Tăng gọi là Hòa Thượng): NT Thích Nữ Diệu Phước, trụ trì chùa Linh Thứu tại thủ đô Berlin Đức quốc. Viết về một người đang hiện tiền trên thế gian này, đó là điều Hòa Thượng Thích Như Điển luôn khích lệ. Hòa Thượng quan niệm, đợi họ chết xong mới đua nhau, xúm nhau ca tụng, người chết đâu nghe được.
21/05/2020(Xem: 2994)
Bà Mai đưa mắt ngắm cô dâu, chú rể. Cô dâu ba mươi sáu tuổi, chú rể hai mươi bảy tuổi. Trông cũng xứng ấy chứ, nhất là đối với người con gái Việt đứng bên cạnh một chàng trai Thuỵ Sĩ. Đã vậy, Trang, tên của cô dâu, vốn dĩ xuất thân từ một gia đình khá giả. Thân phụ nàng từng giữ chức vụ cao trong chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Mẹ có một cửa hàng buôn. Trong đời sống ăn sung mặc sướng không lo nghĩ tiền bạc mặc dù sau năm 75 gia đình có sa sút, Trang vẫn giữ được nét trẻ của ngày nào. Với dáng dấp mảnh mai, Trang đứng bên Heinz cao lớn với bộ râu xồm xoàm, cái mức tuổi chênh lệch dường như không thấy nữa.
14/05/2020(Xem: 11146)
Từ tuổi còn niên thiếu dù chưa trưởng thành nhưng nhờ suốt thời gian trong ngày ngoài việc học tập tôi thường bên cạnh sát thân phụ tôi nên rất hiểu những cay đắng của cuộc đời và mỗi lần khốn khổ hoạn nạn gì thì dường như có một ai đó vươn tay ra vỗ về và an ủi hay ban cho điều mà tôi mong ước . Dù người đó đôi khi là một doanh nhân , một vị giáo sư chỉ biết dạy học nhưng cũng có thể yểm trợ một chút về vật chất và rất nhiều về tinh thần hoặc một người bạn chí thân rồi hình bóng họ lại biến mất khỏi vài năm sau đó dù tôi cố tìm lại để đền đáp ân tình mà mình đã mang trọn trong tim ... nhưng không thể nào có cơ hội .
08/05/2020(Xem: 6280)
Thành phố Melbourne vẫn còn trong thời kỳ hạn chế đi lại và tiếp xúc. Ngày 11/5/2020 sắp tới, Thủ Hiến tiểu bang Victoria sẽ có thông báo mới về lệnh cấm này. Hằng năm, vào giờ này nhiều nước trên thế giới đặc biệt là các nước phương Tây ắt hẳn sẽ rất nhộn nhịp và hân hoan mua sắm và tổ chức tiệc tùng để chúc mừng “Ngày Nhớ Ơn Mẹ”… nhưng các trung tâm mua sắm nơi đây vẫn im lìm, buồn bã, hình như ít ai còn tinh thần để mua sắm, ít người qua lại chẳng qua để mua vội những thứ cần thiết cho gia đình. Tuy nhiên, những người con, người cháu nơi đây vẫn âm thầm mua sắm online để tặng Mẹ, tặng Bà,… cho ngày này. Tình thương và lòng nhớ ơn dành cho Mẹ không chỉ là một ngày, hai ngày mà có lẽ cả cuộc đời này cũng không thể trả hết công ơn sinh thành dưỡng dục. Thời gian phong toả này đã cản ngăn những chuyến bay về thăm Ba Mẹ, thăm gia đình và cái ngày trở về sao mà xa vời vợi…QT xin chia sẻ câu chuyện của John P. Buentello như những tâm tình của mình dành tặng Mạ QT và kính tặng các người Mẹ
01/05/2020(Xem: 12439)
Ngày 25 tháng 10 âm lịch năm 1967, Ngài ngồi thiền trong động Di Lặc, núi Củu Tiên, dãy Quế Lạc, Công xá Thượng Đông, Huyện Đức Hóa, Tỉnh Phước Kiến, đột nhiên được Bồ Tát QUÁN-THẾ-ÂM tiếp dẫn đi khiến mất cả tông tích. Lúc ấy, Pháp Sư được dẫn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc, tham quan các cảnh giới 9 phẩm hoa sen. Thời gian dường như chừng 1 ngày 1 đêm, nhưng khi về đến nhân gian đã là ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch năm 1973 (đi từ 25/10 âm lịch 1967) chạy ra đã trên 6 năm 5 tháng trôi qua. Thoạt nghe thì như là vượt ra tri thức thường tình, khó mà lý giải được. Có câu nói "trên trời 1 ngày, dưới này vài năm" là vậy, cũng bởi không gian của vũ trụ không giống nhau, khái niệm thời gian cũng khác, người có chút ít hiểu biết về Phật học, tất lý nhận ra được.
27/04/2020(Xem: 2972)
Tôi đã tiếp xúc rất nhiều với các cháu những thế hệ thứ hai sanh sau 30/4/1975 và đã sang đây từ khi còn bé , và nếu được sống trong hoàn cảnh cha mẹ cho học lại Việt Ngữ và đôi lần tìm về Việt Nam thăm quê nội , quê ngoại thì trong các cháu vẫn có chút gì ... khi nhắc đến Việt Nam , còn ngoài ra rất nhiều cháu sống trong những gia đình mà cha mẹ từng bị đánh tư sản và ra đi trong nỗi kinh hoàng và chưa bao giờ đặt chân về quê hương xứ sở sau 45 năm , thì các cháu đều nói với tôi rằng “Quê hương cháu là nước Úc , Mỹ v.v...và theo cháu nghĩ nơi nào mình sống hơn 1/2 đời người ( 30-40) năm thì nơi đó chính là quê hương mình Cô ạ “.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]