Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tản văn: Hồi ấy và Bây giờ

02/11/201413:25(Xem: 3928)
Tản văn: Hồi ấy và Bây giờ
white_lotus_7

Tản văn
 
HỒI ẤY & BÂY GIỜ.







 


Thời gian trôi xa nay đã hơn 7 mùa trăng thu lồng lộng duới bao lớp huyền suơng nơi xứ nguời (từ năm 2006-2014) Tuy  nhiên, nhìn lại chỉ còn là một thoáng như bóng mây qua cửa, như dòng nuớc có khi thanh thản, có lúc nặng nề vẩn đục lặng lẽ trôi và trôi xa.

 

Nay có dịp trở lại cảnh xưa, nơi mà truớc đây đã có một thời sinh hoạt nhịp nhàng cùng với Tăng-ni phật tử, an hòa trong không khí tuơng hợp bình yên, mặc dù có biết bao việc dồn dã đuổi theo với thời gian, nhưng không đến nỗi phải ồn náo thô kệch tâm tư, mặc dù trong mỗi tự thân không ít lo toan những điều phía truớc và ngay bây giờ, nhưng cũng khéo dấu đi những nỗi lao xao tranh đấu hơn thua nầy nọ nơi chốn thiền môn…

 

Hồi ấy, phần nhiều ai nấy cũng thuộc lòng thời khóa mỗi ngày ở trong chùa, ngoài việc tự tu, tự học, kinh kệ công phu sớm chiều của mỗi nguời xong, còn có những công việc chung tay, chung sức cho đạo tràng, như huớng dẫn phật tử mỗi khi đến ngày trở về tu học, tập lần nếp sống huớng thiện để đuợc tích tụ phuớc lực và công đức lành, cho có đuợc một đời sống an lạc thân tâm hiện tại và mai sau, ngoài ra còn chăm bón những chậu hoa, cắt tỉa chậu kiểng (bonsai), làm sạch đẹp con đuờng, lối cỏ ngoài sân vuờn, đế toát lên một cảnh quang mà trong đó có lồng vào bao ý niệm, hơi thở bình an từ phía con nguời.

 

Hồi ấy, khi phật tử đến chùa nghe kinh, tu học, kết duyên Tam Bảo, nào phải của riêng ai hay nào phải ai riêng của mình chi đâu, và nếu có chăng, thì chỉ lặng lẽ dấu kín một thoáng nơi tâm tư thôi, rồi cũng sớm phôi phai, chỉ vì nhận ra lẽ vô thuờng, khổ, vô ngã, không ta, không của ta. Nhờ vậy mà dễ tạo nên một nếp sinh hoạt thuần tín, tuởng chừng trong trẻo như tiếng chim hót báo thức bình minh, như ngọn gió mới ru êm mang theo bao huơng cỏ, hương hoa về khắp nẻo đuờng cát bụi, nghe nhẹ rơi rơi như tiếng chuông thanh thoát suơng mai, chầm chậm cho tan nỗi niềm u ẩn để tỉnh lòng triêu mộ.

 

Phải chăng chính vì lẽ ấy mà cổ đức để lại lời cảnh tỉnh cho con nguời dù từ ngàn xưa cho đến tận bây giờ :

 

                                         “Ngộ thinh, ngộ sắc như thạch thượng tài hoa.

                                          Kiến lợi, kiến danh như nhãn trung truớc tiết”

 

Phải chăng, con nguời muốn có một đời sống trên quang lộ giác ngộ, an lạc, hạnh phúc, thì phải nên biết nhận thức ra rằng: những âm thanh, những sắc tuớng ảo huyền suơng khói, những dục lạc ở đời như hoa mọc trên đá, như bụi bặm vuớng vào mắt, để rồi ta phải trôi lăn bạt ngàn trải qua bao đời kiếp phải chịu khổ bứt trong dòng sanh tử. Cũng chỉ vì sự hấp dẫn bọt bèo, những vị ngọt nguy hiểm đánh lừa, gây mê trên buớc hoang lộ lãng du, rồi chợt đến chợt đi, lúc vui lúc buồn, khi mừng khi giận, bớt bạn thêm thù, mãng bám víu lao vút vào cung đuờng chập chờn muôn sắc màu mộng tuởng phù du. Nên chẳng biết đâu là :

 

                                                                   “Thanh sơn y cựu tại

                                                                     Cơ độ tịch duơng hồng”

                                                                   (núi cây muôn đời xanh biếc,

                                                                  Bóng chiều mấy độ tà duơng.)

 

Cái tốt, cái đẹp đuợc sinh ra và tăng truởng từ lòng nhân ái đạo đức thiện luơng, như đại thụ xanh tròn bóng mát và bình yên tồn tại cho muôn loài và muôn đời. Cái ác quấy, tàn bạo, tham lam, lạc nẻo chánh chơn, xu hướng thế thời, chẳng khác nào sự tàn lụi như bóng chiều u ẩn, le lói tạc vào tâm hồn mụt nát, hun hút nỗi sầu bất tận. lạc mất vào cung điệu tang thuơng bên trời khổ lụy.

 

Ngôi chùa ấy, và bao ngôi ngôi chùa khác nữa, tự nó phải đâu là miếng mồi chung đỉnh, thế mà đã biết bao đợt nguời đến, nguời đi, tranh chấp, giành giựt, hơn thua phải quấy, lập toan bao thế thần mưu chuớc.v.v… để rồi một khi lòng tham đã bén rễ vào gốc lợi danh, thì đạo nghĩa, trí nhân, tàm quí… nào có ra gì ! dù có cố vẽ vời tô phết bao lớp phấn son tín nguỡng thấp kém phù phiếm, để gọi là “giữ gìn truyền thống” nếu phải, thì nó là một thông điệp đạo lý Bi-Trí của chư Phật, bằng trái lại, nó chỉ là khẩu hiệu đuợc trình bày, giới thiệu phía bên trên diễn đàn sân khấu phù hoa, âu cũng chỉ là tấn tuồng bi hài theo dòng thế sự của tự muôn đời đấy thôi !

 

Vẫn biết rằng trong tận thâm tâm của con nguời, hay cả chúng sanh đều mong muốn tìm cầu hạnh phúc để đuợc vuợt thoát khổ đau nơi cõi đất bùn lem lấm. Thế nhưng, trong ấy vẫn biết không ít những nguời lại thấy biết và nhận  ra rằng : Cuộc tìm cầu hạnh phúc cho mình và cho nguời, chỉ có và đến với những hành động tốt, không có sự chạy trốn đau khổ nào khi còn tồn đọng tuơng ứng những ý niệm ác quấy… Mấu chốt giá trị nhân tính đạo đức đích thực là ở chỗ đó, phải đâu nhứt thiết y cứ vào danh phận địa vị, chức quyền, thứ dân, giàu nghèo, hay học vị nầy nọ thấp cao, lớn nhỏ.v.v…

 

Nán lại 5 hôm, chạnh lòng khi thấy cái cảnh bây giờ mà nghĩ về hồi ấy, nhớ hồi ấy khi thấy cảnh bây giờ, lối cũ sân vuờn hắt hiu hồn hoa cỏ, lưa thưa mấy cọng lau xa, mỏng manh mấy chiếc lá vàng chao nghiêng trong gió, thanh âm lạc giọng của tiếng chim chiều, có chủ nhưng vô hồn lạc điệu.

 

Một chiều dừng lại thành phố Punta gorda, phía nam của Florida, bên thềm chiều mang mang mây trắng, ánh nắng rót vàng lên những ngọn thông xanh vững vàng giữa cảnh rừng chồi hoang dã, một thoáng chợt nghĩ : dám đâu hồi ấy nay không phải là bây giờ, nhưng thực ra bây giờ có giống chi đâu hồi ấy…!

 

Để kết thúc bài viết nầy, chúng ta cùng đọc lại lời phát biểu của một vị đạo sư :” Sự tu tập, chính là sự duy trì chánh niệm trong mọi hoàn cảnh, không trốn tránh thế gian và cũng không nắm giữ lại những gì…”

 

                                                                               Florida, tháng 10.2014.

                                                                                MẶC PHƯƠNG TỬ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24585)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9473)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 11154)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3625)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5385)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3261)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10782)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3741)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15191)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3509)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]