Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đọc : “Hạt Cát Mịn” Thi phẩm của Sông Thu

27/10/201406:26(Xem: 15330)
Đọc : “Hạt Cát Mịn” Thi phẩm của Sông Thu
     Hat Cat Min2          

   Đọc : “Hạt Cát Mịn”
Thi phẩm của Sông Thu
                                         

                                                  • Trần Đan Hà

 

 

 

Hạ tuần tháng mười vừa qua, HT Thích Như Điển Phương trượng chùa Viên Giác về hướng dẫn khóa tu Bát Quan Trai Giới tại tỉnh Reutlingen. Nhân dịp nầy, Thầy mang quà tặng về cho Phật tử địa phương, đó là  tác phẩm thứ 63 của thầy với tựa đề: “Hiện Tượng của Tử Sinh”. Đồng thời thêm một quà tặng của Bào huynh thầy: Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” của Sông Thu (Bút danh của HT Thích Bảo Lạc).

   Chúng con xin cung kính đảnh lễ và cảm niệm Công đức của nhị vị Ân Sư. Cũng như xin trân trọng những tấm lòng từ bi đối với tha nhân qua những lời nguyện ước. Như người làm từ thiện chỉ biết cho, với cái tâm mong cầu mọi người đón nhận sự hỷ lạc:

 

 “Nếu có được niềm hỷ lạc nào sau khi quý độc giả xếp tập thơ lại; đó là món quà tinh thần cao đẹp mà quý vị dành tặng tác giả. Kính nguyện tất cả chúng ta sống an lạc hạnh phúc trong tin yêu và xây dựng một đời sống tốt đẹp giải thoát. (trích Lời mở đầu).

 

   Thông điệp nầy chẳng những ví như tấm lòng của các vị Bồ tát luôn nghĩ đến tha nhân và cầu mong cho vạn loại chúng sinh được sở cầu như nguyện. Đồng thời còn đi tìm mọi pháp nuôi dưỡng và chuyển hóa tự thân và tha nhân trong tình thương yêu đồng đạo. Thế nên con xin mạo muội ghi lại những cảm nghĩ sau khi đọc xong thi phẩm; cũng như những đồng cảm của mình và trân trọng xin giới thiệu đến độc giả khắp nơi.

 

                                                                        ***

  Theo thiển nghĩ, Thi phẩm “Hạt Cát Mịn” như bản tóm lược, hay nói khác thì đây là công trình “Thi Hóa Duy Thức Học” để làm tài liệu tu học. Một môn học quan trọng bậc nhất đối với người học Phật. (Ngày xưa Thầy Tuệ Không đã thi hóa Kinh Kim Cang và Kinh Pháp Cú thành Kinh Hiền và Kinh Ngọc. Đến bây giờ là Thầy Bảo Lạc, với môn Duy Thức). Một việc làm hết sức khó khăn mà tác giả vẫn kiên trì thực hiện. Có lẽ nhờ vào những trợ duyên như đã ghi lại trong “Lời mở đầu”: Khung cảnh hùng vỹ của núi đồi Blue Mountain, nơi có ngôi già lam Đa Bảo cùng với sự đóng góp công quả của những Phật tử địa phương. Như bìa sách do Thầy Nguyên Tạng và họa sĩ Quảng Pháp Tấn - Ngọc Minh trình bày. Cùng các PT. Tâm Quảng, Chúc Ý, Văn Tính, Châu Ngọc góp phần in ấn.

 

   “Hạt Cát Mịn” có thể ví như hóa thân của các tư tưởng lớn trên thế giới, được phân tích từ Thân và Tâm của con người qua những phạm trù như Lý trí và Tình cảm. Đây là những lãnh vực hết sức phức tạp không thể nghĩ bàn. Nhưng chỉ được rút gọn lại trong thể loại thơ Lục Bát của Việt Nam. Cho nên không thể tránh khỏi những “nghịch cảnh và chướng duyên”. Trước tiên là phạm trù ngôn ngữ: “Thơ Lục bát là loại thơ mềm mại uyển chuyển, nên cần nhiều từ vận Bằng. Thế nhưng trong Ngôn ngữ học của các đề tài như Phân Tâm Học, Duy Thức Học bao gồm rất nhiều từ vần Trắc như: Xúc, Tác ý, Thọ, Tưởng, Dục, Thắng giải, Niệm, Định, Huệ, Vô tưởng định, Diệt tận định, hòa hợp tánh, Bất hòa hợp tánh, Tưởng thọ diệt, Bất động diệt, Vô thường Vô ngã…Thứ hai, đã gọi là Luận thì không thể bỏ ý thêm lời, điều nầy lại trái ngược với việc làm thơ. Thế nhưng tác giả đã vượt thắng mọi chướng duyên để thực hiện được thi phẩm nầy. Có lẽ tác giả là một tu sĩ với bản nguyện là “Hoằng Pháp độ sanh” chỉ xem tất cả là phương tiện (đã gọi là phương tiện thì khi đạt đến cứu cánh rồi, thì phương tiện ấy cũng vứt bỏ). Thế cho nên mỗi câu thơ như một bài pháp để hướng dẫn việc tìm ra nguyên nhân căn bệnh để đối trị. Khi đã tìm ra nguyên nhân, thì cần phải luận bàn về công việc tương tác, tương tức với ngoại cảnh, để sống hòa cùng thiên nhiên vạn vật. Như đi tìm chiếc chìa khóa mở cánh cửa để bước vào cảnh giới hạnh phúc an lạc. Đó là mục đích của người tu học theo Phật giáo. Ví dụ như tìm hiểu về “Tâm Hành” để dẫn dắt con người đì về hướng chân thiện mỹ. Hay là thực tập những pháp môn để đưa tâm về với thế giới bình an. Vì cổ đức có nói “Tâm bình thì thế giới bình”.

 

   Nên tác giả đã không ngại khó, không sợ chướng duyên mà ra tay nghĩa hiệp. Nhờ vào thắng duyên như có nơi chốn tịnh lạc để tĩnh tu với khung cảnh: “Sáng nghe chim ca hót. Quen thuộc tiếng gọi mời. Vừng hồng vừa lộ hiện. Ngày mới rộn tinh khôi” (Ngày tinh khôi). Phong cảnh hữu tình đối với những tâm hồn thoát tục. Như cuộc sống của những đạo sĩ chọn nơi chốn thuận tiện để an thân lập mạng. Chiều chiều với gậy trúc vân du, hay những đêm trăng ngồi uống trà thưởng nguyệt. Hoặc chiêm nghiệm cuộc đời để tìm ra chân lý, để thấy được chân như. (Như ngày xưa Tất Đạt nhiều đêm ra ngồi bên dòng sông soi bóng để tìm lại “Bản lai diện mục” trong Câu Chuyện Dòng Sông của Hermann Hesse)

 

   Nơi đây đã cho tác giả cảm hứng đối với việc suy niệm về cuộc đời. Về những câu hỏi làm nát óc biết bao nhiêu nhà tư tưởng lớn của nhân loại: “Ta từ đâu đến? Và sẽ đi về đâu”? Hình như tác giả cũng mong muốn đi tìm một câu trả lời thỏa đáng, nên đã dụng công hình thành tác phẩm nầy để làm phương tiện, giúp cho những ai đang mong cầu tu học theo đạo giải thoát và giác ngộ của đức Từ phụ Thích Ca.

                             

   Xin lược qua những phần quan trọng của nội dung thi phẩm: Thi phẩm Hạt Cát Mịn được chia ra năm tiểu mục với những chủ đề như sau: Thức Tâm. Sắc Trần. Tâm-Vật lý. Thân phận. Phong cảnh.

 

   Ba phần đầu, tác giả cố công tìm hiểu sự hình thành, tương tức và tương tác qua sự vận hành của con người hay vũ trụ. Vì con người hay vũ trụ cũng từ trong cát bụi mà ra. Như lời một bản nhạc của cố Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi. Để một mai tôi trở về cát bụi…”. Hay trong Kinh Hoa Nghiêm đã diễn tả cái trùng trùng duyên khởi: “Tam thiên Đại thiên Thế giới chỉ nằm trong hạt cải mòng”. Hay “một là tất cả, và tất cả là một”.

 

  Thức tâm gồm 100 pháp duy thức là: Trăm pháp. Tâm thường như. Chuyển thức thành trí. Tâm vương. Tâm sở. Tâm bất tương ưng. Vô vi pháp. Căn bản phiền não. Tùy phiền não. Các tâm sở thiện. Còn phần sau như một phụ trang diễn tả thân phận và cuộc sống của con người đối với bản thân và xã hội; những cảm tác về phong cảnh thiên nhiên, qua những lần Thi nhân đi chiêm quan phương ngoại.

 

   Xin trích dẫn một phần nhỏ của những đề mục chính trong “Trăm Pháp”.

 1)- Trăm pháp: Chuyển dịch Đại thừa Bách pháp Minh môn (lời luận của Thế Thân Bồ tát về Tâm pháp). Sau đây là phần luận về Tâm vương ví như một vị vua điều hành các Bộ các Ngành. Để đem lại thanh bình thịnh trị cho quốc gia xã hội.

  Trong Bách pháp quan trọng nhất là Tâm vương:

 

  “Thử xem tám pháp Tâm vương

   Như vua một nước đảm đương trị vì

   Bao gồm các Bộ, Sở, Ty

   Điều hành sắp đặt thực thi chế tài”

 

   -Tâm sở:

   Tưởng là nghĩ ngợi lo xa

   Suy lường tưởng tượng non già thiệt hơn

   Tự lo xét nét nguồn cơn

   Do ý hành động thiện chơn đẹp lòng

   Năm điều bốn chuyện bên trong

   Biến thiên pháp giới khắp cùng hư không

 

   -Tâm bất tương ưng:

   Bất tương ưng hành hửng hờ

   Hai mươi bốn món dựa nhờ Tâm vương

   Đắc là đạt được ứng tương

   Phá ngã chấp Pháp thoát đường lầm mê

 

  - Vô Vi Pháp:

   Pháp Vô vi thật khó lường

   Không hình vô tướng dễ thường cân đo

   Pháp tuyệt đối pháp thẩm sâu

   Lìa sanh diệt ứng hiệp ngay Niết Bàn.

 

   Các pháp hữu vô lược qua

   Muôn hình vạn trạng quả là rộng dung 

   Từ phàm tới thánh cộng thông

   Cùng tu đồng chứng Pháp thân Bồ Đề.

 

   -Căn bản phiền não:

   Căn bản phiền não bẩm sinh

   Theo ta như bóng với hình sánh đôi

   Đầu thai chuyển kiếp luân hồi

   Thoát vòng tăm tối chào đời hài nhi

 

  -Tùy phiền não:

   Nhóm tùy phiền não theo sau

   Gồm hai mươi món như bao lá cành

   Ba phẩm thứ tự hợp thành

   Tiểu tùy mười món phần hành khác nhau

 

   Phẩn hay giận dỗi nhớ dai

   Hận luôn ghim gút thù ai khó hòa

   Phú che dấu tội tối đa

   Não luôn tâm trạng tỏ ra buồn phiền

 

   -Các tâm sở thiện:

   Hoàn toàn tâm lý hiền lành

   Ưa làm lợi ích chúng sanh giúp đời

   Giác ngộ giải thoát tuyệt vời

   Thế hay xuất thế đồng thời dựng nên

 

   -Các yếu tố của tâm thiện:

 a)- Tinh tấn là hạnh chuyên tinh

   Siêng năng thắng lướt ngoại hình quản chi

   Ác chưa sanh quyết trừ đi

   Sanh rồi diệt sạch dứt truy đến cùng

 

 b)-Tàm là tự xấu hổ riêng

   Tôn trọng danh dự thiêng liêng của mình

   Không làm thương tổn ô danh

   Giữ gìn thể diện tiếng lành đồn xa

 

 c)-Quý cùng e thẹn người bên

   Lo sợ dư luận kịp kềm dừng tay

   Đối trị vô quý dứt ngay

   Ngăn ngừa việc ác khó mà phát sanh

 

 d)-Vô tham là hạnh đẹp xinh

   Của tiền bố thí hòa bình ngoài trong

   Thái độ thân thiện ân cần

   Phấn chấn vui vẽ phát tâm Bồ đề

 

 e)-Vô sân là liều thuốc thần

   Chửa bệnh nóng giận trị căn thù hằn

   Dù gặp nghịch cảnh trái ngang

   Tâm luôn bình tỉnh vui an tròn đầy

 

   Chận ngay đóng bít sân trào

   Để cho thiện niệm dạt dào phát sinh

 

 g)-Vô si có vẽ đàn anh

   Ung dung thư thái tâm thành sáng trong

   Chẳng cho mê muội lạc lầm

   Một bề sáng suốt kiếm tìm minh sư

 

 h)-Khinh an nhẹ bước vân du

   An nhiên tự tại tâm thư thái hòa

   Điềm tỉnh trước mọi vấn đề

   Họa tai biến cố chưa hề động giao.

 

 i)-Bất phóng dật thật thiện toàn

   Không buông lung ấy mới trang anh hào

   So tài đấu trí thấp cao

   Lồng trong khuôn khổ nhà giao đức dày

 

 k)-Hành xã mọi việc thỏng buông

   Hành mà không chấp in tuồng khó thay

   Không quan tâm đến khen chê

   Không tự hào cũng chẳng hề nêu công

 

   Tứ chúng giác ngộ chăng là

   Cũng xem như gió thoảng qua bầu trời

   Con người tự tại thanh mai

   An vui giải thoát gót hài nhẹ lâng

 

l)-Bất hại tâm lý sau cùng

   Không làm thương tổn muổi mòng sinh linh

   Tâm từ trải rộng thênh thênh

   Tôn trọng sự sống vững bền chúng sanh.

 

   Cỏ cây đất đá vô tình

   Núi sông biển cả môi sinh cũng vầy

 

Phần II:-Sắc trần:

 

   1) Sắc pháp

   Chủng loại sắc pháp bao hàm

   Năm căn chung với sáu trần kết nên

   Sinh lý về phần năm căn

   Đổi trao vật lý dò phăng sắc trần

 

   2) Thanh trần:

   Thanh trần là tiếng nhân gian

   Xưa nay tiếp diễn nhịp nhàng trước sau

   Cũng vì mê luyến đắm say

   Bao người vướng víu thoát ngay được nào.

 

   3)-Hương trần:

   Mùi hương phảng phất dễ ưa

   Ai mà chẳng thích thoáng vừa nhẹ lâng

   Phân thành sáu loại hương trần

   Càng thêm ý vị tăng phần gấm hoa

 

   Ba điều sáu chuyện vừa nêu

   Cơ quan khứu giác mủi đều ngất ngây

   Mùi hương chiên đàn nhẹ bay

   Hương người đức hạnh ngược quay gió ngàn

   Hương giải thoát ngát trần gian

   Thơm lừng pháp giới Niết Bàn tinh nguyên

 

   4)- Vị trần:

   Vị trần gồm có mười hai

   Mặn, ngọt, chua, đắng, lạt, cay, nồng nàn

   Vị vừa ý, vị cường toan

   Khó mong đáp ứng vẹn toàn dưới trên

 

   5)- Xúc trần:

   Xúc ưa đụng chạm mịn trơn

   Mỏng nhẹ, láng mướt, chập chờn làn da

   Thích nghi hoàn cảnh tối đa

   Muốn thân sung sướng hóa ra khổ nhiều.

 

   Phần III:- Tâm - Vật lý: Tâm-Vật lý trước thời đại.

   Do nhiều phần tử hợp nên

   Nhiều phe phái mượn gióng lên tranh giành

   Sanh ra xâu xé phân tranh

   Chủng tộc, xã hội hình thành quốc gia…

 

(Là sự tổng hợp tư tưởng triết gia từ Đông sang Tây, từ những triết học cổ La Hy trước Công Nguyên như Aristotle (384-322) đến Decartes (1596-1650)-Newton (1643-1727)-Galileo (1564-1642)- Albert Einstein…)

 

Trong công việc tương tác ấy, tác giả cũng đã bắt gặp những ý tưởng hay, được lồng vào trong những câu thơ đẹp, qua: “Các yếu tố của tâm thiện”:

 

   “Chận ngay, đóng bít, sân trào

   Để cho thiện niệm dạt dào phát sanh”

 

   “Điềm tỉnh trước mọi vấn đề

   Tai họa biến cố chưa hề động giao”

 

   “Không quan tâm đến khen chê

   Không tự hào cũng chẳng hề nêu công”

 

  “Con người tự tại thanh mai

   An vui giải thoát gót hài nhẹ lâng”

 

  “Tâm từ trải rộng thênh thênh

   Tôn trọng sự sống vững bền chúng sanh

   Cỏ cây đất đá vô tình

   Núi sông biển cả môi sinh cũng vầy”

 

  “Giữ tâm thiết thạch kiên trinh

   Không hề nao núng thế tình thị phi

   Ung dung tự tại duy trì

   Kiện toàn tổ chức phát huy pháp mầu

   Ngàn xưa mãi đến ngàn sau

   Tâm không, vật cũng nhuốm màu hư không”

 

   Phần VI và V: “Thân phận và Phong cảnh” gồm những bài thơ “độc lập” như góp vào những bông hoa làm nên hương sắc cho đời, hương sắc giải thoát:

 

  “Cùng tu cùng học đồng hành

   Đồng giải nghiệp lực tử sanh luân hồi

   Tỏ tường lóng gạn khúc nôi

   An vui tự tại cảnh đời tịnh an

   Đẹp xinh chín phẩm sen vàng

   Di Đà từ phụ phóng quang rước về…”

 

  “Thành tâm khấn nguyện Như Lai

   Đạo vàng bền vững hoằng khai rạng ngời

   Cõi người, cõi thánh, cõi trời

   Địa ngục, ngạ quỷ đồng thời súc sanh

   Tin sâu, niệm vững, chí bền

   Đồng tu đồng chứng đồng lên Niết Bàn”

 

   Để rồi cuối cùng đi đến một lập nguyện:

 

    “Đường giải thoát nguyện bước lên

      Đơm hoa bát nhã kết nên sen hồng”

 

   Là gói ghém tất cả những tâm nguyện của Thi nhân, với một tấm lòng hướng đến giác ngộ và giải thoát. Cho nên thơ cũng được giải phóng khỏi thế giới đời thường. Như cố Thi sĩ Vũ Hoàng Chương diễn tả:

 

     “Chữ bay từng cánh chim ngàn.

      Mỗi câu là một Niết Bàn hóa thân”.

 

 
Hat Cat Min

   Muốn có tập thơ “Hạt Cát Mịn” xin liên lạc về:

                 Chùa Pháp Bảo

          148- 154 Edensor Road,

 St Johns Park, NSW 2176 Australia.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2013(Xem: 4442)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn : - Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hỗn. Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm". Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
08/02/2013(Xem: 13619)
Nhân một hôm đến tại tư thất thăm cụ Ngô Trọng Anh, Giác Lượng đọc được bài thơ của Cụ Hoàng Văn Minh, tức nhà thơ Điền Viên, đăng trên Đặc San của Hội Người Việt Cao Niên, vùng Hoa Thịnh Đốn Xuân Kỷ Sửu (2009). Với tựa đề: NƯỚC NON
04/02/2013(Xem: 13831)
Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.
27/01/2013(Xem: 3170)
Cảm nhận nguồn sông trăng, Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả. “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.
21/01/2013(Xem: 11476)
Một lòng yêu nước với yêu quê Sang lánh trời Tây vẫn nhớ về Non nước đớn đau lòng tu sĩ Đêm về gợi nhớ bóng hương quê Nghìn năm văn hiến giờ đâu thấy Nghĩa lý luân thường mất đã lâu Khổ đau oằn quại triền miên kiếp
20/01/2013(Xem: 3047)
Cuộc đời bầm dập nổi trôi của một em học trò cũ đã thôi thúc tôi viết nên truyện này. Người ta thường bảo „sông có khúc, người có lúc“ nhưng phải nhìn nhận cả cuộc đời của em đã phản ảnh lại nhận xét trên. Bao đau thương đã dồn dập lên đôi vai yếu ớt của em, nhiều lúc tưởng chừng như không còn gượng đứng dậy được nữa, nhưng em vẫn phải sống, vẫn phải đương đầu với mọi khổ đau tràn ngập vây quanh.
15/01/2013(Xem: 6312)
Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир) là nhan đề một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865 - 1869.
30/12/2012(Xem: 4275)
Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe. Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tuỳ cơ giúp đỡ cô em nhút nhát. Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:
17/12/2012(Xem: 4612)
Cách đây mấy năm, trên một chuyến xe đò muộn về thăm quê. Khi xe đi ngang qua cầu Ngân Sơn, thì lúc ấy đã 5 hay 6 giờ chiều. Dù đã nhiều lần đi qua đây, nhưng có lẽ buổi chiều cuối xuân năm ấy, là buổi chiều mà tôi đã nghĩ nhiều nhất về Võ Hồng. Tôi tưởng tượng rằng, hồi còn nhỏ chắc mỗi chiều ông vẫn thường ra đứng ở nơi này, để nhìn ráng đỏ nơi rặng núi phía Tây kia ? Rồi nhìn bóng chiều xuống chậm trên dòng sông này? Chắc phải vậy! Vì trong tác phẩm của Võ Hồng thì cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của đất trời, tôi cho là những cái đẹp mà Võ Hồng đã viết hay nhất. Nhưng trong cái đẹp đó, Võ Hồng luôn luôn đưa vào thiên nhiên một chút sầu, hay ngậm ngùi cho một cái gì đó đã hay đang sắp mất đi trên cuộc đời này. Tại ông bi quan chăng? Hay tại vì cái đẹp mong manh của những buổi chiều tà trên dòng sông tuổi thơ dạo nào cứ ám ảnh ông mãi.
10/12/2012(Xem: 3273)
Đúng là những ngày tháng không quên thật! Sau 30.4.75, tôi bị ở lại Việt Nam là một điều quá ngu xuẩn rồi. Tự mình làm hại mình và hại cả tương lai con cái nữa. Niềm đau này thật không làm sao phôi pha được với thời gian, vết thương trong lòng tôi cứ chua xót ngậm ngùi!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]