Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cuộc Lữ Mặc Phương Tử

09/09/201414:58(Xem: 12792)
Cuộc Lữ Mặc Phương Tử

Thich_Minh_Tong





CUỘC LỮ MẶC PHƯƠNG TỬ
















Lung linh giọt sáng ngàn phương

Đêm huyền diệu xuống nghe sương luân hồi

Ngắm trăng ngắm cả cuộc đời

Giữa mênh mông chợt ta ngồi ngắm ta

Nhà thơ phiêu lãng, trầm tư Mặc Phương Tử, một hôm ngồi quán chiếu như vậy, thấy mình là giọt sương, hạt cát từ ngàn phương luân hồi qua trùng trùng vô lượng kiếp về đây giữa trời thơ đất mộng này. Thi sĩ tên thường gọi Nguyễn Thanh Tâm, sinh năm 1952 tại Gò Công Tây, bên dòng sông xanh biếc Tiền Giang, một nhánh sông rộng lớn của sông Cửu Long, phát nguồn từ cao nguyên Tây Tạng hùng vĩ chảy về cuồn cuộn, mang chở phù sa qua những cánh đồng mênh mông bát ngát. Một thời thơ ấu hồn nhiên nô rỡn, chạy nhảy tung tăng thả diều, tắm nắng ven sông lộng gió, đùa chơi với cỏ nội hoa ngàn, ruộng lúa đồng quê. Thế rồi bất chợt một ngày thay đổi lớn, chàng lặng lẽ rời bỏ quê nhà, quá giang theo chuyến xe đò lên phố thị Sài Gòn vào cuối năm 1964, bắt đầu cuộc sống lênh đênh như cánh lục bình trôi giữa dòng đời xa lạ, vừa ngơ ngác ngạc nhiên, vừa biết nếm mùi vị phong sương, chuyển dịch, luân lưu ngay từ hồi 12 tuổi.

Từ đó, tiếp tục chuyện học hành, sách vở bút nghiên, rồi miệt mài khám phá cảnh giới u huyền thi tưởng xứ, một chốn miền uyên tư trong hố thẳm sâu trầm tâm nội. Năm 1969, mới 17 tuổi đã hứng cảm làm những bài thơ tình lãng mạn, u hoài và có đăng lai rai các báo Tiền Phong, Sống Mới, Đôi Mươi, Tia Sáng… Dãi nắng dầm mưa, nhào lộn giữa cuộc tồn sinh đầy bức bách, vây khổn bốn bề đủ thứ chuyện chiến tranh, máu lửa ngập trời, chuyện xã hội nhiễu nhương, lắm điều hưng phế, chuyện áo cơm nặng trĩu nhiêu khê… Trước bối cảnh phức tạp, bao phủ màu thảm đạm của dòng sử lịch đang chuyển mình giữa bao chủ nghĩa, tôn giáo, đảng phái chính trị, phe nhóm tả hữu, thôi thì đủ trò kéo xuống đường rầm rộ, hò hét, đứng lên tranh đấu, tranh chiến đòi tự do, dân chủ um sùm, làm cho tâm trạng chàng thanh niên càng thêm chới với, rơi vào hụt hẫng, bế tắc. Chẳng biết chọn con đường nào để dấn thân tiến bước. Rồi bỗng nhiên một cơ duyên hy hữu xảy đến vào năm 1974, khiến chàng chuyển hóa tư tưởng một cách bất ngờ, tự nguyện phát tâm xuất gia làm du tăng theo hệ phái Khất Sĩ ở Tịnh xá Trung Tâm, quận Gò Vấp ( nay là Bình Thạnh ) Sài Gòn, với pháp danh Thích Minh Tòng và tham gia học dự thính lớp Phật khoa Đại học Vạn Hạnh cho đến ngày xảy ra biến cố năm 1975.

Sau cuộc đổi thay lịch sử ấy, thi nhân vẫn tiếp tục sinh hoạt bình thường trong hệ phái Khất Sĩ tại Bình Thạnh. Thời kỳ này, ngoài những việc Phật sự ra là bắt đầu giao du với bằng hữu văn nghệ sĩ đó đây. Các nhà thơ Bùi Giáng, Trụ Vũ, Trần Đới, Tô Kiều Ngân, Thanh Việt Thanh, Lộng Chương, Kiên Giang ( Hà Huy Hà ) thường hay lui tới Tịnh xá Trung Tâm cùng hòa âm cung bậc đạo và thơ, khiến cho hồn thơ xuất cốt bay lên phiêu dật, nhất là nhà thơ Kiên Giang và Bùi Giáng thì ghé thăm chơi thường xuyên, có lần cố thi sĩ Bùi Giáng cao hứng, mần thơ Kính Tặng Đại Sư Minh Tòng :

Trung Tâm Tịnh Xá tình thương

Đi về ở giữa vô thường trần gian

Niềm vui vô tận đá vàng

Niềm đau khổ đến vô vàn đã xa

Tình cờ con bước chân ra

Tao phùng tất cánh như hà hình dung

Đường qua ngôn ngữ cuối cùng,

Đường về vô tận điệp trùng ngữ ngôn

Đó là một chiều nhạt nắng mùa hạ năm 1993, nhà thơ điên cuồng rực rỡ thuộc tầm cỡ thượng thừa hoan hỷ điên ấy, hay đi chùa nầy chùa nọ, như Già Lam, Pháp Vân, Long Huê, Thiền viện Vạn Hạnh, Tịnh xá Trung Tâm chơi. Chơi rong thỏa thích, mặc sức du hý tam muội như một cuồng sĩ nghêu ngao vô sự. Từ mối giao cảm đặc biệt đó, có lẽ vô tình đã thắp lên ngọn lửa lãng mạn tự do sáng tạo cho nhà thơ Mặc Phương Tử. Thế là chất phiêu bồng đã nghe luân lưu dưới gót chân trần rộn rã và một sớm tinh sương nọ, liền khoát túi vải lên vai, thực hiện chuyến viễn hành ca theo ngàn phương du mộng, trên con đường mây trắng lặng phong quang :

Ngàn năm mây trắng vẫn bay

Ngàn năm lối cũ trang đài cõi thơ

Ta từ mấy ngõ hoang sơ

Trên vai áo bụi qua bờ ngắm trăng

Ngắm trăng nhìn gió, thấy biết bao nhiêu chuyện tang thương, vinh nhục, lợi danh, thành bại, hơn thua, được mất… của kiếp người như bèo bọt phù du, thi nhân giật mình, cảm nhận sâu xa, thấm thía lẽ đời dâu bể vô thường, lãnh hội ra một điều gì quá đỗi hư ảo, mong manh, sanh diệt huyễn hóa hư phù. Phù vân nhân thế ô hay. Như sương như khói giữa ngày tháng qua. Bay đi bụi cát ta bà. Ngút mù hỗn độn thấy ra ngậm ngùi... Vì thế, từ năm 1996, thi nhân âm thầm rời bỏ phố thị quay về vùng suối đồi hoang vu chốn Long Thành, Đồng Nai, lặng lẽ hơn mười năm dài khép cửa sài một mình tịch cốc, dốc lòng thăm dò thế giới nội tâm huyền bí vô vi. Tuy chưa thấu thị lẽ tử sinh nhưng cũng thấy được trần gian như mộng huyễn, tuy chưa bùng vỡ hết nghiệp chướng, nhập vào vô thượng Tuệ Giác, nhưng cũng biết mọi hiện tượng, vạn pháp như hoa đốm giữa hư không. Từ đó, thấy và nghe cũng nhẹ nhàng thanh thản, thưởng thức được hương vị cô liêu, mỉm nụ cười giữa lồng lộng gió tiêu dao. Hồn thơ rạt rào lại trỗi dậy vi vút, cuộc lữ lại tiếp tục lên đường theo những cung bậc xuất thần, ngân nga réo rắt cung đàn Hóa Thân Từ Độ :

Tình hư không rỏ hồn sương

Ai đem kỷ niệm qua đường chiêm bao ?

Cung đàn khởi tự trăng sao

Hóa thân từ độ tình trao cuộc đời

Từ độ ấy, mây trắng trăng ngàn, sương đồi gió núi tha hồ chiêm ngưỡng ngắm trông giữa muôn chiều phiêu dật. Vầng trăng tịch nhiên vẫn ẩn hiện thiên thu trên bầu trời thăm thẳm tâm linh, có một sắc màu gì vô cùng quyến rũ huyền vi bí nhiệm, khiến cho người thi sĩ hát ca và chiêm nghiệm ngắm nhìn hoài trong những đêm dài khuya khoắt lặng hoang lương :

Gió bụi qua cầu cuộc viễn phương

Đêm nay ta hát khúc hồ trường

Trăng nghiêng nửa giấc đời phiêu bạt

Ta với trăng cùng vọng cố hương

Cố hương ấy chính là dải đất mới trong lòng mình, nơi chốn miền Hoan hỷ địa viên dung, nơi Tự tánh thanh tịnh mà Lục Tổ Huệ Năng đã bừng thấy, thi sĩ vẫn biết như thế nhưng chưa thực sự đặt chân lên mảnh đất thanh tịnh đó, cho nên đứng bên này bờ cát bụi, dưới gót lữ lang thang ngoài ven trời vạn dặm, chàng nhớ thương, tưởng vọng về với bao niềm tha thiết khôn nguôi. Xuôi ngược đó đây, ngày tháng ngao du mở ra những phương trời viễn mộng, bụi hồng bụi đỏ đều dẫm qua khắp miền viễn xứ phong trần. Từ vùng châu thổ đồng bằng sông nước Cửu Long đến cao nguyên Lâm Đồng, Đăk Lăk lạnh ngắt sương sa, từ Tây Ninh, Bình Phước, Đăc Nông xuống Biên Hòa, Bà Rịa Vũng Tàu, Phan Thiết, lang thang ra Nha Trang, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội, lên tận phố núi Sa Pa cao chất ngất, vòng xuống vùng biển vịnh Hạ Long, leo lên tuyệt đỉnh Yên Tử xa mù, rồi trở về Vĩnh Long, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Long Xuyên, Rạch Giá, Hà Tiên, Cần Thơ… Đường thơ mở ra ngút ngàn vạn nẻo thiên di qua tận bên kia bến bờ đại dương nước Mỹ, bước đi kỳ cùng, phiêu diêu, phiêu hốt bốn phương, dấu chân còn lưu lại ở xứ lạ quê người, nơi những vùng đất mù xa đã đi qua như Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia… đầm đìa mấy mùa lữ thứ phiêu linh. Chính nhờ những cuộc lữ dữ dội, tiêu sái, tiêu dao du nọ đã vô tình hun đúc, dồn tụ tinh túy giữa vườn lòng trong trẻo của thi sĩ và đã trổ bông thành những tác phẩm thi ca : Hoa Nắng ( 1991 ) Hương Đất ( 1992 ) Tình Biển ( 1994 ) Góc Nắng ( 1997 ) Ru Tình Hạt Bụi ( 1998 ) Hương Đạo ( 1999 ) và những tác phẩm sắp sửa ấn hành : Rót Chiều Vào Thơ, Cuối Mùa Viễn Mộng, Tuyển Tập Thơ Mặc Phương Tử, Thơ Đường Luật Mặc Phương Tử, Tùy Bút Mặc Phương Tử, Ký Sự Du Tăng ( hồi ký )…

Sáu thi phẩm đã xuất bản và sáu tác phẩm còn lại như những bức tranh ngoạn mục ghi dấu cuộc viễn trình, hành hương tâm linh trên những bước phù vân lãng đãng, thênh thang thông lộ ngao du, vẽ lên bầu trời tâm thức những nét huyền ngân rung động, xúc cảm dạt dào cùng nhật nguyệt, thiên địa, vô ngần vô tận cõi vô ngôn. Rộn rã nhịp mùa đi lưu chuyển, biếc mộng xanh ngời nơi quán trọ, bỏ buông xuống hành trang nhẹ gánh đeo mang, hát du ca lời cảm ơn vệt nắng ven bờ lau lách, cho xạc xào tiếng thơ đỡ bớt màu hắt hiu sầu cô quạnh :

Ta dừng lại một chiều bên quán khách

Nghe thời gian chầm chậm bóng xuân đi

Rũ vai áo xanh hồn theo lối cỏ

Ngàn mây bay chở cả bóng tà huy

Đó là thời kỳ thi nhân rong rêu ở đất Long Thành năm 1996, bắt đầu một giai đoạn phiêu bồng không mục đích, không mong cầu chi hết, chỉ biết đi và đi và đi như hạt bụi tung vờn, như cơn gió bồng tênh, nhẹ hều phiêu lãng. Đi như thiền sư thi sĩ Basho khắp xứ hoa Anh Đào Nhật Bản, nhà thơ du tăng khất sĩ Việt Nam cũng rảo gót nhàn du thư thả, thung dung giữa muôn trùng xứ sở quê hương. Đường thơ băng qua vạn lý thị thành, sơn dã, cô thôn, xuống biển lên đồi, lội sông tắm suối nguồn khe xanh biếc giữa thiên nhiên. Rồi một chiều bữa nọ bồng bềnh lên núi Dinh ghé thăm chư bằng hữu đang ẩn cư bên am cốc thảo lư mộc mạc :

Bên đồi lều cỏ nát

Sơn khách tạm vào đây

Ngồi xem vầng mây bạc

Gió lùa hương cỏ may

Cỏ may là một loại cỏ nhỏ bé, hương nhẹ nhàng thoảng phất vào hồn khách lữ đang gõ bước đơn hành lên đỉnh núi Dinh. Không biết tự bao giờ, núi Dinh là một chốn miền mặc nhiên dành cho những con người ưa thích ẩn dật như ẩn sĩ Thiện Sáng trên Thanh Lương Am. Đó là một tâm hồn hoằng đại, tài hoa đã chọn cô liêu làm nguồn cảm hứng sáng tạo qua cung bậc hòa âm tâm cảm cùng Krishnamurti và bước đi thượng thừa cùng Thiền tông lộng gió… Họ bỏ phố thị phồn hoa náo nhiệt, buông hết bon chen, giật giành danh lợi phù phiếm để tìm về núi rừng mông quạnh, ngồi tâm sự với mây trời, gởi nỗi niềm cho trăng sao, thổ lộ tâm tình cùng cây cỏ bên mé triền xanh vách đá cheo leo giữa non ngàn hoang vắng tịch liêu, đượm màu yên tĩnh, tịnh lạc, khinh an :

Núi cao vắt ngọn ngàn mây bạc

Chim hót rừng xa nắng rựng ngày

Lặng lẽ khách ngồi bên vách đá

Gió lùa hương cỏ đến Hang Mai

Hang Mai lồng lộng gió nắng, trăng ngàn, bàng bạc linh hồn sơ thủy thiên nhiên bay chập chờn bên sườn núi chon von, chớn chở, thở nhẹ từng hơi dài rỗng lặng, thảnh thơi. Ngồi đây, trên tuyệt đỉnh núi cao nhìn xuống cuộc đời hỗn mang tan hợp, tỉnh tỉnh say say dưới phù vân nhân thế kia mà thi nhân chạnh lòng thương cảm vu vơ :

Rừng khuya loáng ánh sương mờ

Nghe chim nhịp cánh giang hồ đâu đây

Ta ngồi nghĩ cuộc tỉnh say

Đời rưng rức mộng vơi đầy hợp tan

Mộng đời vẫn còn rưng rức những điều chi kỳ lạ trong hồn thơ lãng tử. Từ độ nào không còn nhớ, thơ như thần nhập vào đáy lòng sâu kín, thăm thẳm thâm u bỡ ngỡ, thơ như nghiệp mệnh đầy quyến rũ đi về cõi huyền mộng rộng rãi mênh mông. Thơ say mấy cuộc tang bồng. Thênh thang ngàn dặm giữa không gian tình. Qua đèo vượt thác vô minh. Vừa đi vừa quán chiếu mình bao la… Giã từ núi Dinh, thi nhân vân hành lên phố hoa Đà Lạt, hát với cỏ hoa chiều phiêu phất và ngàn sương trôi lững lờ, lững thững như có như không :

Dốc cả ngàn mây

Ngày về bên quán cốc

Và ngàn sương cũng hội tụ một chiều trôi

Cho ngàn thu

Rót vàng trên chiếc lá

Trong cõi người chan chứa cõi thơ tôi

Cõi thơ Mặc Phương Tử cũng như cõi thơ Phạm Thiên Thư hay cõi thơ Minh Đức Triều Tâm Ảnh, từ bao giờ đến bây giờ vẫn trên thể điệu phiêu nhiên, vừa trữ tình chơn chất bình dị, vừa sâu sắc lặng trầm thăng hoa trên cung bậc thuần túy ý vị tâm ca, hòa quyện miên man giữa đôi bờ mộng và thực, tâm và cảnh, mê và ngộ, đạo và đời… gợi lên bao niềm thâm thúy, suy tưởng và trầm tư :

Cõi mộng nào ta đã giã từ

Bây giờ cõi Thực chính là Hư

Linh hồn thuở ấy… niềm điên đảo

Khi bóng lao xa khói bụi mù

Từ thuở đi hoang vào cõi mộng

Máu tim đã rỏ giọt yêu thương

Một lần xin gọi linh hồn cũ

Để bước đi về thôi vấn vương

Hư – Thực đời ta mang giọt lệ

Hóa thân làm giọt nắng trong đời

Hong lên từng mảnh hồn hoang dại

Sỏi đá nằm nghe tình biển khơi

Bờ cõi thanh tân về một sớm

Đôi màu sanh diệt, sáng màu xuân

Mênh mông cõi biếc tình hoa cỏ

Điên dại hồn ta - Xin một lần…

Một lần xin điên dại cho biết mùi vị ly kỳ của trần ai gay cấn phải không ? Nghe ra như giọng Tô Man Thu trong Nhà Sư Vướng Lụy hay như Tất Đạt trong Câu Chuyện Dòng Sông. Có thể là như thế, vì bất cứ một nhà thơ tài hoa nào trên mặt đất trần gian này cũng đều có mang ít nhiều dòng máu lãng mạn, điên cuồng trong người, nhưng cái chuyện điên điên rồ dại, say sưa lãng mạn ấy, xảy ra lâu lắm rồi và đã trôi qua, xa như tiền kiếp, thời quá khứ tuyệt mù trong sương khói thuở nào chiêm bao mộng mị dáng Em Xưa :

Lặng thầm trong cuộc bể dâu

Áo vai chớm bạc lên màu thời gian

Mơ về đâu cánh bướm vàng

Cho hồn hoa cỏ nghe hoang nỗi chiều

Thế rồi trên bước cô liêu

Gặp em xưa vẫn diễm kiều dáng xuân

Em từ cái thuở bâng khuâng

Mong manh áo lụa ngập ngừng lời hoa

Thế rồi nhớ buổi chia xa

Nước mây tương hội chỉ là duyên thôi !

Chỉ một chữ duyên trong Phật giáo là đủ nói lên rốt ráo toàn cảnh sanh lão bệnh tử, mọi cuộc gặp gỡ, chia ly, vĩnh biệt não nùng. Chung quy đều do duyên cảm, duyên phận, nhân duyên, duyên nghiệp kết hợp tạo tác mà thôi. Khi hiểu thấu đạo lý nhân duyên sinh, thì nhà thơ liền an nhiên trước những mâu thuẫn, xung đột, nghịch cảnh trong đời sống… Nhưng thôi, mùa thơ đang bừng rộ huy hoàng trên cao nguyên Đà Lạt, ngàn thông vi vút, buông chùng âm ba hòa tấu những cung bậc du dương trầm bổng, hoan ca nhã nhạc suối reo dưới truông đèo thác đổ Datanla, đẹp lạ lùng hùng vĩ núi rung rinh :

Mây ngàn về ngự đỉnh

Tình tự giữa hư không

Tiếng chim rừng vọng lại

Theo khói sương bềnh bồng

Có ai đi qua đấy ?

Nghe hơi thở núi rừng

Và có ai nghe đấy ?

Lời hoa cỏ muôn trùng…

Thông già nghiêng bóng cổ

Vách đá chạm đường rêu

Ngàn năm bên thác đổ

Hương đất trời tịch liêu

Bài thơ Hương Tịch Liêu trên đề tặng sư Giác Tín, một huynh đệ đồng môn thâm tình chí cốt, nhân chuyến hành hương cùng nhau lên Đà Lạt vào tháng 2 năm 2011. Đó là đôi bạn vong niên, đồng điệu, đồng cảm hỗ tương nhau, thường chia sẻ với nhau về đạo học, triết lý, thi ca, tư tưởng và nghệ thuật. Rừng núi cao nguyên này, dường như có duyên lành hay sao mà thi nhân thường trở lại phiêu diêu nhiều lần trên những bước du sĩ ca :

… Bên quán cốc người cùng ta

Từng trang xếp lại mở ra dặm trời

Thời gian rót nhẹ dòng trôi

Hắt hiu như ngọn đèn soi bên thềm

Đường truông dốc Đà Lạt đêm

Nghe vang sóng nhạc, ai tìm dáng xưa

Ai còn tìm nỗi sớm trưa ! ?

Ta còn tìm tuyệt đỉnh mùa quê hương

Quê hương là cố quận. Cố quận là tâm linh nằm ngay giữa lòng mình. Nơi chốn vô vi đó vừa cao vời vợi mà cũng vừa sâu hun hút, nhưng tất cả đều nằm gọn ghẽ trong thâm tâm, trong thi tưởng xứ hoằng viễn, chứa vô lượng vô biên hằng hà sa số thế giới, ba đời, sáu cõi, mười phương. Một là tất cả, tất cả là một theo lý trùng trùng duyên khởi của Hoa Nghiêm. Nếu có đi tìm thì chắc chắn thi sĩ chỉ muốn tìm quê hương, cố xứ đó mà thôi. Còn bây giờ thì đang lang thang ở vùng sơn dã Lâm Hà, viếng thăm liêu vắng của một vị thiền sư nổi tiếng phá chấp triệt để, ngồi lặng se nghe chim trời ríu rít nghìn lời kinh thánh thót, thấy Phật mỉm cười dưới triền núi mây trôi :

Nghe chim cất tiếng trên đồi

Từng không đọng bóng mây chuồi qua non

Sá chi đâu chuyện mất còn

Chỉ là cát bụi bên cồn tử sinh

Chỉ là sương vỡ trên cành

Chỉ là ta, chỉ là mình… vậy thôi !

Vậy Thôi là tên đề bài thơ riêng tặng cho thầy Từ Thông, còn gọi là Như Huyễn Thiền Sư, vị dật sĩ tiêu dao, có phong thái phóng khoáng, tự do nọ. Chỉ có mấy câu thôi cũng đủ nói lên ý thiền vô sở trụ, không dính mắc, chẳng chấp thủ vào đâu. Làm sao cố giữ cho được, khi chuyện đến đi, còn mất, sinh tử… như hoa đốm giữa hư không ? Rỗng rang hạt bụi xuống đồi. Khai tâm mở trí vậy thôi tuyệt cùng. Từ vô thủy đến vô chung. Đã về đã tới trên vùng rong chơi… Cuộc lữ chơi rong phóng xuất tưng bừng những ý tình thơ mới mẻ, tân kỳ trên niềm hân hoan sáng tạo :

Vỡ tung hạt bụi lao xao

Từ trong cuộc lữ hanh hao dấu hài

Khói sương chuốc mộng tàn phai

Tình thơ thoáng đã ru dài trăm năm

Trăm năm đang hiện hữu giữa giây phút bây giờ. Giờ đây thi sĩ theo mây ngàn bay lang thang xuống núi, ruổi rong bồng bềnh trên sóng biển Nha Trang vàng xanh hương trời tỏa ngát, rồi mênh mang trôi về qua bến sông Hàn óng ả, thướt tha chiều Đà Nẵng, văng vẳng giọng ai cười nói, ngâm thơ, thoảng vọng trong lòng bao tiếng hát ngân nga :

Nghiêng nghiêng sóng nước Sơn Chà

Áo mây trắng mỏng thướt tha phong kiều

Trời quê một thoáng tin yêu

Ngàn năm vẫn đẹp bóng chiều Hàn giang

Thi nhân thấy vẻ đẹp bóng chiều tà trên sóng nước là vẫn còn rung động với âm vang và sắc màu của vạn hữu duyên sinh. Mở lòng ra thưởng thức vẻ đẹp nguyên sơ chân thiện mỹ của trời đất, nhật nguyệt, khi dừng chân bên bến bờ xứ lạ, hòa nhịp tim đời với vạn niềm thương cảm vô tư :

…Ta dừng lại bên khoảng trời viễn xứ

Muôn ngã về se cát bụi ngàn phương

Câu kinh kệ xanh màu theo cuộc lữ

Máu tim đời trĩu nặng vạn tình thương…

Rồi một chiều nắng hè thôi gay gắt

Nghe hồi sinh rộn rã tiếng ve sầu

Màu rêu cũ còn đọng hồn giọt nắng

Trên đường về hoa cỏ lắng niềm đau

Niềm đau nỗi khổ lắng dịu chìm sâu trong hố thẳm nào không đáy ? Có lẽ đó là Hố Thẳm Tư Tưởng của Phạm Công Thiện uyên tư, uyên áo, uyên mặc. Chẳng biết nữa, chỉ biết rằng trăng gió ngàn phương bây chừ đã đến tận chân trời, chân mây heo hút mù xa Sa Pa, trên vùng thượng sơn Lào Cai, Tây Bắc quá mộng vờn trăng, lượn cùng sương xanh biếc huyền hòa :

Ta về thả giấc ngủ trưa

Giật mình hương núi rừng đưa bên thềm

Đất trời xanh một niềm riêng

Cánh hoa còn đọng màu nguyên xuân này

Thăm thẳm chiều thăm thẳm mây

Đời thăm thẳm mắt đổ dài bóng xa

Thăm thẳm người thăm thẳm ta

Gió đưa nhịp bước trời Sa Pa chiều

Chiều Sa Pa thấy màu nguyên xuân rực rỡ trong hồn ? Chao ơi ! Còn chi thú vị hơn nữa phải không ? Thế là trong một trạng thái xuất thần bất ý, thi nhân đã chạm đến cõi diệu tâm trầm hậu của chính mình. Giữa muôn trùng cuộc lữ, chập chùng sơn hà đại địa qua vô lượng nghĩa tâm kinh, chừng như hiển lộ một điều chi bát ngát. Trang kinh vũ trụ càn khôn vốn là vô tự, không có chữ, chỉ có những bậc thượng căn, đạt đến vô phân biệt trí, diệu quan sát trí thì mới đọc được và lãnh hội được yếu chỉ kỳ diệu đó thôi. Tuy chưa đạt đến cảnh giới Pháp Hoa : “Thị pháp trụ pháp vị. Thế gian tướng thường trụ” nhưng thi nhân vẫn cảm nhận bằng trực giác bén nhạy, thấy muôn vạn pháp hữu vi, vô vi đều như thơ, như mộng, như thị, như nhiên, đẹp tựa mây trời thiên thu trên tuyệt đỉnh rừng thiêng Yên Tử trầm hùng :

Mây trắng vờn quanh theo ngõ trúc

Tiếng chim thanh thoát vọng ven rừng

Ta về Tháp Tổ, Hoa Yên cũ

Một thoáng đời còn mạch suối hương

Trúc Lâm rừng cũ chiều buông vội

Lạc giọng chim kêu nắng vướng ngày

Thoáng bóng trời xanh lồng bóng núi

Cội tùng xưa vẫn vút ngàn mây

Chùa Hoa Yên trên đỉnh núi Yên Tử ở Quảng Ninh là nơi Điều Ngự Giác Hoàng khai sáng pháp thiền Trúc Lâm năm 1304, tính đến nay, khi thi nhân lên chiêm bái vào tháng 6. 2012 là cũng hơn 700 năm trời dài đằng đẵng vút bay qua. Quá cùng xúc cảm, rung động bồi hồi, lặng hồn nghe vi vu trên đầu cây lá cỏ, rạt rào trên rừng tùng trúc những lời thi kệ thâm trầm âm vang, đồng vọng về như dặn dò, nhắn nhủ rằng, ở đời nên tùy duyên mà sống linh động, không chấp chặt, dính mắc vào bất cứ một việc gì. Trong lòng mình vốn sẵn có kho tàng Chân Tâm, Tuệ Giác rồi, cứ tha hồ xử dụng, đừng có tưởng vọng, mong cầu chạy kiếm đâu nữa cho mệt. Đó là yếu chỉ của thiền :

“Ở đời vui đạo hãy tùy duyên

Hễ đói thì ăn mệt nghỉ liền

Kho báu trong nhà thôi tìm kiếm

Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”

Thiền và thơ như đôi cánh đại bàng lượn chao nghiêng xuống cõi miền cát bụi phù du, làm hồi sinh cho mặt đất hoang vu thêm dồi dào sinh động. Không thể nào diễn tả hết sự diệu dụng khôn dò của thơ và thiền đã ảnh hưởng vô lường đến toàn thể cuộc tồn lưu chuyển dịch, một cách tuyệt vời. Với con mắt thiền thì mọi sự đều viên dung vô ngại, thấy đời là bóng hiện của cảnh tâm, tâm mình thanh thản, an nhiên thì nhìn đâu cũng an nhiên, thanh thản sáng ngời :

Rồi trăm năm rồi ngàn năm

Hạt sương về với đêm rằm nguyệt viên

Ru tình hạt bụi sơ nguyên

Cõi chân như hiện khắp miền cỏ hoa

Khi thấy khắp miền cát bụi, sông núi, trăng gió, cỏ hoa đều là Chân Như thì thi nhân đã thể nhập tâm thiền diệu lý rồi vậy. Một cách cụ thể, thiền và thơ đã hóa thân thành âm nhạc, hội họa, nghệ thuật sắp đặt trong mọi sinh hoạt hằng ngày, ngay trong cách đi đứng, ăn nói, cư xử tự nhiên khiêm tốn, hòa nhã, nhã nhặn lặng chan chứa đầy khí vị yêu thương. Hồn thơ đã thuần nhiên hiện hữu, hòa âm đơn sơ giản dị trên từng bước đi của người thi sĩ :

Nửa đời xưa đã qua đi

Nửa đời còn lại chút gì không hư

Nửa đời đâu đó…mặc dù

Vóc tay cười mộng cuộc phù du ta

Nửa đời, nửa đời đi qua

Bước đi là đến từ xa để gần

Nửa đời còn vết phong trần

Bờ nhân ảnh khỏa trong ngần biển xanh

Nửa đời cơn gió qua mành

Vội vàng chi ! Nửa tử sinh…chỉ là

Mây trời trắng ngọn lau xa

Thênh thang nhịp bước tình hoa cỏ về

Tình hoa cỏ về là tình thơ, tình nhạc, tình người hân hoan hát mộng đời giữa cuộc trăm năm. Nói theo kiểu tượng trưng, trăm năm là một kiếp người mà ở đây, thi nhân mới nửa đời thôi, nghĩa là thời gian có mặt trên đời này cũng gần sắp hết rồi. Ý thức được như vậy tức nhiên là đã thấy ra một cõi đi về, nên tuyệt nhiên không hề sợ hãi để bước chân vẫn thênh thang trên lộ trình vượt qua nhịp cầu sinh tử hư linh. Sinh tử như hoa đốm, tuy có mà không phải thực, cái thực là vô tướng kia thôi, như Diệu Pháp Liên Hoa đã nói : “Các pháp xưa nay vắng lặng như hư không, sanh trụ dị diệt, niệm niệm chẳng dừng mà bản thể của nó vẫn là như như bất động, thường trụ, nó chính là vô tướng.” Cái vô tướng này là cảnh giới tối thượng thừa, khi nào đại ngộ mới thấy tận tường được, còn chưa kiến tánh thì cứ từ từ công phu miên mật, cẩn trọng trong từng ý niệm, âm thầm nhiếp dẫn thân tâm. Thẩm thấu sâu xa điều đó, cho nên nhà thơ vẫn nhất phương ca, một phương lòng trong veo, trong trẻo theo điệu hát Hoa Kinh :

Bóng đời đổ xuống miền hoa cỏ

Ta vẫn ca bài ca nhất phương

Vẫn chiếc áo lì năm tháng cũ

Vẫn đề thơ hát khúc vô thường

Bốn phương mây vẫn còn lưu lạc

Và vạn bờ xa tiếng sóng xa

Màu sắc thời gian trôi mãi miết

Mà đường vô tận biết đâu nhà

Khúc độc hành vọng mãi tiếng thơ

Bao giờ ta chả biết bao giờ

Từ trời Hy Mã mênh mông nắng

Đến suối Tào Khê mây rũ tơ

Một sớm ngủ bên bờ cỏ lục

Giật mình nghe tiếng giọt sương tan

Tình hư không gọi hồn mây trắng

Rộn tiếng chim ca lộng gió ngàn…

Gió ngàn lồng lộng từ đỉnh Linh Sơn, rờn lạnh Hy Mã Lạp Sơn xuống dòng suối Tào Khê, nguồn thiền chảy về xanh biếc cùng hòa âm trong giọng chim ca, hoa cỏ hát trên con đường mây trắng thênh thang. Quán trọ, đường thơ mãi miết ra đi, nhưng ra đi tức là trở về, quy hồi cố quận Tâm Như trong từng điệu thở vững chãi thảnh thơi :

Thời gian quán trọ đời thơ

Vai mang nhật nguyệt qua bờ tuyết sương

Mắt xem mây trắng bên đường

Bước theo ngày rộng về phương tâm hồng

Thế là cuộc lữ kỳ cùng của người thi sĩ trầm hậu, sau những chặng đường sương khói, cuối trời lưu viễn ngút mù xa đã hiển lộ phương tâm hồng độc đáo, hào phóng phong quang, sáng ánh thanh lương giữa vườn hồn trọn vẹn niềm hoan hỷ thi ca… Trên tinh thần thi ca hòa điệu, đồng thanh tương ứng đó, tôi đã có cơ duyên hội ngộ cùng nhà thơ Mặc Phương Tử ở Tịnh xá Ngọc Giang, Long Xuyên, bên dòng sông Hậu Giang xanh ngát. Tịnh xá Ngọc Giang do sư Giác Tín trụ trì, là một tâm hồn bao la đã lặn sâu vào thi tưởng xứ uyên thâm, uyên áo. Giữa dặm đường lang bạt kỳ hồ, tôi đã nhiều lần ghé lại, lưu trú một vài đêm cùng đọc thơ, thở nhẹ không khí hàn huyên đàm đạo, cạn hết mấy bình trà khuya, vẳng nghe gió lùa xào xạc ngoài kia qua dòng sông trăng, lặng hồn tâm đắc sâu xa và sáng hôm sau thức dậy, trước khi tạm biệt lên đường, tôi không quên lưu lại bài thơ kính tặng những tâm hồn đơn sơ, bình dị nhưng vô cùng đẹp. Đẹp một cách trong sáng, thanh thản rỗng rang :

ĐÊM Ở LẠI TỊNH XÁ NGỌC GIANG

Bụi giang hồ xao xác qua

Giữa tam thế mộng ta bà huyễn hư

Trôi lăn nghìn kiếp mịt mù

Bỗng đêm nay hiện thiên thu sững sờ

Vỡ bùng ra cái hồn thơ

Xưa sau chợt thấy bây giờ đây thôi

Ôi trăng bừng chiếu diệu ngời

Nguồn thông lộ mở trào khơi mạch ngầm

Giác rồi từ chỗ Tín tâm

Nhất như vô thủy cung cầm vô chung

Hòa âm thâm thiết tuyệt cùng

Ra vào vô sự bước thung dung về

Tâm Nhiên





Thơ Mặc Phương Tử ( chữ nghiêng ) trích trong các thi phẩm :

Góc Nắng. Nhà xuất bản Văn Nghệ 2007

Hương Đạo. Nhà xuất bản Đà Nẵng 2011

Cuối Mùa Viễn Mộng ( bản thảo ) (xem trang thơ của Mặc Phương Tử)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2010(Xem: 9348)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 10908)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3593)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5298)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3232)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10464)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3723)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 14963)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3466)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
05/10/2010(Xem: 13308)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]