Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

- Dấu chân người viễn xứ (HT Như Điển)

07/07/201405:16(Xem: 28727)
- Dấu chân người viễn xứ (HT Như Điển)



Ai trong chúng ta cũng đã có hơn một lần ra đi. Có người đi xa mà cũng có lắm người đi gần, nhưng đi là một điều có thật, thể hiện của một trong bốn động tác của sự đi, đứng, nằm và ngồi. Trong bốn động tác nầy có lẽ nằm thuộc động tác chiếm nhiều thời gian nhất, ít ra cũng 8 tiếng đồng hồ trong mỗi ngày. Còn đi, đứng và ngồi thì sao? Nếu chia cho cả ba động tác trên ra đều nhau thì mỗi loại cũng chiếm đến 8 tiếng đồng hồ, nhưng mấy ai thực hiện việc nầy được đều đặn như vậy. Có thể động tác nầy nhiều hay ít hơn động tác kia hoặc ngược lại động tác kia ít hơn động tác nầy. Nằm và ngồi cũng như đứng đều ở thể tĩnh, nghĩa là không di chuyển, còn đi là động tác luôn chuyển động. Nếu tính thời gian một năm là 365 ngày, mỗi ngày đi 8 tiếng đồng hồ, thì mỗi năm có số giờ đi là: 365x8=2.920 giờ. Cứ thế mà nhân lên cho số tuổi tác thì chúng ta sẽ biết được đã đi bao nhiêu giờ và bao nhiêu cây số trên đoạn đường sinh tử của mình rồi.

Ở đây không phải làm thống kê cho một cuộc lữ hành, nhưng trong cuộc sống nầy có mấy ai quan tâm về việc nầy. Vì đa phần chúng ta đều quan niệm rằng: Hãy để cho thời gian đến và đi tự nhiên như những gì là tự chính nó, đâu phải cần quan tâm đến làm gì. Tuy nhiên, nếu đứng về phương diện toán học cũng như phân tích học thì người ta cũng nên làm việc ấy để thử nghiệm về bản tâm của mỗi người. Vì chính thời gian là thước đo chính xác về tự thân của mỗi con người của chúng ta vậy.

Có những chuyến lữ hành không định hướng, nhưng rồi cũng phải trôi giạt đến một bến bờ nào đó; cũng có lắm chuyến đi không đến được đích, bởi không gian và thời gian chi phối. Do vậy mà có nhiều người thành công và cũng có lắm kẻ thất bại. Tất cả đều do nhân quả nhiều đời và nghiệp lực của mỗi người bị chi phối bởi tự thân của chính mình, chứ tuyệt nhiên không có ai có thể chi phối chúng ta bằng tự nghiệp lực của chính mình cả. Kể từ trước và sau năm 1975 đã có không biết bao nhiêu chuyến ra đi như vậy. Có người thành công và cũng có nhiều người không may đã ra người thiên cổ. Điều nầy chẳng ai mong muốn, nhưng đó là một sự thật. Cũng nhờ những chuyến ra đi như thế, vì hoàn cảnh nầy hay hoàn cảnh khác mà ngày nay người Việt chúng ta có mặt khắp năm châu bốn bể trên quả địa cầu nầy. Được biết có gần ba triệu người như thế. Cũng đã có nhiều người đã nằm xuống và cũng có nhiều trẻ thơ đã sinh ra, tiếp tục con đường mà ông bà, cha mẹ đã cưu mang từ những thế hệ trước. Đây chính là sự truyền thừa, nối tiếp việc truyền tử lưu tôn ấy. Phật Giáo cũng kế tục con đường nầy, nhưng không phải là con đường truyền tử lưu tôn, mà là con đường kế thế khai lai, báo Phật ân đức. Chính vì cái nầy có nên cái kia phải có; cái nầy sinh nên cái khác phải sinh; cái nầy diệt nên cái khác phải diệt. Trong cái còn, có cái mất và trong cái mất lại có cái còn. Nhưng phàm cái gì có hình tướng đều phải chịu sự chi phối bởi vô thường, mà đã là vô thường thì căn bản của nó là khổ. Căn bản của khổ, do không, huân tập mà thành. Không ấy chính là vô ngã. Chỉ vì con người bị vô minh dẫn dắt nên mới mãi bị trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi của đoạn đường sanh tử. Nếu chúng ta biết dừng, thì mọi vật sẽ đổi hướng. Thiện hay bất thiện, tất cả đều chính do chúng ta quyết định cả.

Tôi đã có nhân duyên qua lại trên quả địa cầu nầy bằng đường hàng không chắc cũng đã hơn một triệu cây số rồi. Trong những chuyến bay đêm, rồi những chuyến bay ngày quanh quả địa cầu nầy, tôi đã nhiều lần dừng chân tại Úc Châu. Một xứ sở mà mọi người ai cũng muốn đến thăm một lần cho biết. Vì ở đó có rất nhiều điều mà con người cần phải làm quen. Tôi quen và biết mặt không biết bao nhiêu người để có thể kể cho hết hay viết cho cùng, nhưng tôi lại có duyên với Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne kể từ khi Thượng Tọa Thích Tâm Phương mới có mặt tại đây. Chắc cũng không dưới 20 năm. Trong hơn 20 năm ấy có biết bao nhiêu vật đổi sao dời, có biết bao nhiêu điều phải nói đến. Hai mươi năm là một chuỗi thời gian tuy ngắn với một thế kỷ, nhưng rất dài đối với một kiếp nhân sinh. Từ ngôi chùa nhỏ, đổi qua ngôi trường học. Rồi từ trường học biến thành chánh điện của một ngôi chùa. Rồi Tăng xá, trai đường, bảo tháp v.v... tất cả đều do nhân duyên hòa hợp mà thành tựu.

Nhân lễ Khánh Thành Tu Viện Quảng Đức vào tháng 10 năm 2003, tôi có để ý đến một tu sĩ đọc bản dịch sang tiếng Anh phần lược dịch chương trình hành lễ cũng như diễn văn khai mạc lễ khánh thành. Sau buổi lễ Thầy Tâm Phương giới thiệu cho tôi biết rằng đó là Thầy Nguyên Tạng, bào đệ của Thầy ấy. Tôi rất vui, vì thấy trong một gia đình có đến 3 người đi xuất gia (kể cả Sư Cô Tâm Vân, trụ trì Chùa Thiên Long, Sài Gòn). Tôi nhìn thấy một tương lai sẽ rạng rỡ ở xứ Úc. Vì sẽ có nhiều người trẻ giỏi giang như Thầy Nguyên Tạng và có khả năng nói trôi chảy ngoại ngữ như vậy sẽ dễ hội nhập và phát triển tại xứ Úc nầy. Từ đó tôi cũng vui lây và làm quen với Thầy Nguyên Tạng kể từ lúc nào không biết. Từ những việc viết lời giới thiệu sách của Thầy ấy dịch từ tiếng Anh sang tiếng Việt, rồi những chuyến hoằng pháp tại Hoa Kỳ, Canada hay Âu châu... Dù ở đâu, tôi cũng được Thầy trợ duyên ở nhiều phương diện khác nhau. Rồi trang nhà Quảng Đức cũng chính là nơi giao lưu nhiều vấn đề về việc đăng tải thông tin cùng bài vở, để rồi tôi hay liên lạc thường xuyên với Thầy Nguyên Tạng hơn.

Mùa An Cư Kiết Hạ kỳ thứ 15 của Giáo Hội Úc Châu năm 2014 nầy được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức. Nhân việc chư Tôn Đức Tăng Ni câu hội về đây để kiết giới trường, một buổi lễ chính thức tấn phong Đệ Nhị Trụ Trì TV Quảng Đức cho Thầy Nguyên Tạng qua sự tin tưởng của Thượng Tọa Thích Tâm Phương, là một dấu mốc lịch sử của Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne nói riêng cũng như nước Úc nói chung. Điều nầy đã đánh dấu một chặng đường đi gian khổ suốt hơn 20 năm qua, nhưng Thầy Tâm Phương đã có người nghiêng vai đỡ lấy gánh nặng ấy. Quả là điều hữu phước. Vì cũng có nhiều bậc Tôn Túc khi lớn tuổi cũng muốn có người trao truyền, nhưng kẻ sẵn sàng nghiêng vai ra gánh vác thì không có. Phước báu nầy có được, xin chia sẻ niềm vui hoằng pháp nơi xứ người của Thượng Tọa Tâm Phương.

Ở Úc Châu, Đại Lão Hòa Thượng Thích Như Huệ, Hội Chủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Úc Đại Lợi-Tân Tây Lan và Hòa Thượng Thích Bảo Lạc cũng đã thực hiện việc trao truyền cho Đệ Tử lo việc Trụ Trì đã từ nhiều năm nay. Đây là những hình ảnh đẹp. Vì tre tàn thì măng mọc. Điều ấy hẳn vui, khi có người trẻ đứng ra lo việc kế thừa.

Tôi không đến Úc được trong dịp nầy để dự lễ tấn phong Thầy Nguyên Tạng lên làm Đệ Nhị Trụ Trì Tu Viện Quảng Đức tại Melbourne để chung vui cùng hai Thầy, nhưng tôi vẫn dõi theo bước chân di của người con Việt ở mọi nơi khi có những sự kiện hy hữu như thế nầy. Vì lẽ không phải ai cũng có thể làm được, nếu người ấy không tự lãnh trách nhiệm về cho chính mình.

Từ năm 1979 đến nay đã hơn 35 năm như thế. Tuy tôi không ở lại Úc dài lâu, nhưng xứ Úc vẫn là nơi chốn để tôi hướng về mỗi khi có một sự kiện trọng đại nào. Xin chắp hai tay lại để cầu nguyện cho đại sự nầy được thành tựu và xin nguyện cầu cho mùa An Cư của Giáo Hội tại Úc Châu được thành tựu viên mãn.

Viết xong tại chùa Tam Bảo Na Uy nhân ngày vía Đức Phổ Hiền Bồ Tát 21.2. năm Giáp Ngọ nhằm ngày 21.3.2014.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/01/2022(Xem: 11827)
CÂU TRUYỆN TRIẾT HỌC THE STORY OF PHILOSOPHY – WILL DURANT Cau Truyen Triet Hoc-1971 Nguyễn Hiền-Đức thực hiện theo bản của Hội Khoa Học Lịch Sử Bình Dương ngày 25/07/2012 Santa Ana, CA tháng 12 năm 2021
29/12/2021(Xem: 2916)
Theo kết quả cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở vào năm 2019 của chính quyền Việt Nam. Phật giáo chỉ có 4,6 triệu tín đồ. Những người theo đạo Phật giảm hơn 30% so với thống kê năm 2009 nên trở thành tôn giáo đứng hàng thứ hai sau Ki Tô giáo với số con chiên 5.9 triệu Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng số lượng tín đồ đạo Phật bị giảm sút. Kẻ viết xin nêu ra một vài sự việc tạo nên sự kiện nầy:
29/12/2021(Xem: 2954)
Bóc vài tờ lịch cuối ... lòng dâng trào cảm xúc ! Phước duyên gì được an lạc phút này đây Khi bao người vì đại dịch …sầu não bao vây Chắp tay sen…rưng rưng kính tri ân Phật Pháp !
27/12/2021(Xem: 2952)
Bắt đầu một năm mới tinh khôi, nghĩa là phải có một tháng, một tuần, một ngày, một giờ, một phút, một giây hoàn toàn mới, từ tương lai bước vào hiện tại. Nhưng một cái gì hoàn toàn mới, xuất hiện một cách mơ hồ trên lịch, chỉ là một ý niệm, một quan điểm. Do người ta đặt để, đo lường, tạo một qui ước về thời gian — căn bản dựa trên sự chuyển dịch của địa cầu qua hai vầng nhật nguyệt (1) — để ổn định sinh hoạt xã hội, mà từ hàng ngàn năm trước đến nay, ngày-tháng-năm được xuất hiện trên những tấm lịch, những cái đồng hồ (mặt trời, cát, nước, đeo tay, treo tường), máy vi tính và điện thoại.
25/12/2021(Xem: 10429)
Nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương - 86 tuổi, tác giả tập "Còn gặp nhau" - qua đời lúc 4h sáng 24/12 tại nhà riêng. Ông Trần Bá Thùy - chồng nhà thơ - cho biết bà qua đời vì nhiều bệnh nền như suy thận, viêm gan siêu viên B, xuất huyết dạ dày. Cách đây vài tháng, bà nhập viện điều trị nhưng sức khỏe yếu, gia đình đưa về nhà chăm sóc hồi tháng 10. Do không ăn uống được, truyền đạm không vào nên thể trạng bà ngày càng suy giảm. Những ngày cuối đời Tôn Nữ Hỷ Khương thương nhớ người con đã qua đời cách đây hai năm. Trên giường bệnh, bà thường nhắc về con. Hay tin Hỷ Khương lâm bệnh nặng, nhiều tuần qua, các đồng nghiệp, bạn bè ghé nhà, khiến bà xúc động. Gia đình mong muốn lưu giữ dấu ấn thơ ca của Hỷ Khương, để con cháu sau này nhớ đến. Ông Bá Thùy cho biết năm nay có in một cuốn lịch, bìa là ảnh của Hỷ Khương, nội dung gồm những câu thơ được yêu thích của bà như: "Còn gặp nhau thì hãy cứ vui/Chuyện đời như nước chảy hoa trôi/Lợi danh như bóng chim chìm nổi/Chỉ có tình thương để lại đời...
22/12/2021(Xem: 10120)
Trong các khóa tu dù ngắn hay dài hạn, chúng ta cần nên giữ sự yên lặng. Chúng ta cần phải thực tập cho kỳ được sự im lặng. Bởi "Im lặng" là một phương pháp tạo cho ta có thêm nguồn nội lực phong phú hùng tráng. Đó là một sức mạnh trọng đại của tâm linh. Im lặng không có nghĩa là chúng ta không được quyền nói. Ta được phép nói, nhưng chỉ nói trong giới hạn khi cần thiết. Và chỉ nói trong phạm vi ái ngữ, yêu thương và hòa kính. Không nên nói những lời có ác ý công kích chỉ trích phê bình, gây bất hòa tổn hại cho nhau. Nói trong sự ôn hòa nhỏ nhẹ từ ái.
22/12/2021(Xem: 7545)
Từ xưa, thi ca là nguồn cảm hứng của bao văn nhân thi sĩ. Xúc cảnh sanh thơ, phơi bày những tâm sự, gởi gắm tất cả những tâm tình rạt rào chứa đựng những bi thiết, những hoạt cảnh của những xã hội đương thời mà tác giả hiện sống. Những cảm tác ấy, dệt thành đủ màu sắc hương vị. Nó xuất phát từ những tâm hồn cao thượng tự chứng, hay những tâm hồn bình thường mang nặng mặc cảm tự tôn, tự ty, hoặc bất mãn theo từng nếp nghĩ. Tất cả, đều tùy theo quan điểm của mỗi thi nhân. Song cho dù diễn tả dưới bất cứ dạng thức nào chăng nữa, tựu trung, cũng nhằm nói lên chiều hướng xây dựng xã hội, làm đẹp con người và cuộc đời. Mọi sắc thái hiện tượng của vũ trụ như: mây, nước, trăng, sao, núi non, chim kêu, suối chảy v.v…đều là những gợi cảnh nồng nàn mà thi nhân đã gởi lòng hòa điệu.
27/11/2021(Xem: 2653)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không. Người thân, người sơ, từng gặp, chưa từng gặp, nhìn nhau chào mừng, nói đôi câu, rồi cuối cùng cũng vẫy tay tạm biệt, chia xa. Không còn ai. Trăng khuya soi rạng vườn sau. Những cánh hồng từ các bồn hoa vươn dậy như được tắm gội dưới ánh sáng dìu dịu, tịnh yên. Một mình ngắm hoa dưới trăng. Một mình ngắm trăng trên hoa. Bất chợt, trong một thoáng nhìn mờ ảo, ánh trăng như vỡ thành những bụi tuyết, lãng đãng rơi trên những cánh hoa dưới sương đêm lóng lánh[1].
25/11/2021(Xem: 8924)
1-Linh giác thường minh, xua tan màn hôn ám, dìu chúng sanh lên thuyền Bát Nhã -Bửu quang phổ diệu, chiếu khắp chốn trầm luân, dắt muôn loại hướng cõi Niết Bàn 2--Huyền Huệ ngời soi quét sạch mê lầm, thẳng qua bến giác -Quang Tâm tỏa chiếu xua tan tục luỵ, hoà nhập nguồn chơn 3--Thanh đức minh minh phổ chiếu khổ luân hồi giác ngạn -Tâm nhiên hạo hạo đồng quy chơn cảnh xuất mê đồ
15/11/2021(Xem: 3898)
Là người thâm tín Phật, cung kính phụng thờ Tam Bảo, thì luôn có một đức tin kiên cố rằng: Dù ở bất cứ thời gian nào, không gian nào vẫn luôn có chân thân các bậc thượng nhân hóa thân hành hoạt cứu nhân độ thế. Các Ngài luôn có mặt giữa cuộc đời để nâng đỡ chúng sanh vạn loại. Vững chải đức tin như thế nên mỗi khi về chùa Phi Lai (hoặc Phi Lai Hòa Thịnh hoặc Phi Lai Biên Hòa, tôi luôn thấy hình bóng chân nhân trưởng lão Tâm Nguyện – Thiện Tu -Thượng DIỆU Hạ TÂM hiện hữu mồn một ở đó. Tôi thấy rất rõ từng bước chân như hoa sen nở Ngài bước đi, như lắng nghe từng tiếng từng lời ngài đang dạy bảo, khuyên lơn, khuyến khích Phật tử chúng ta nuôi dưỡng tâm bồ đề mỗi ngày mỗi lớn hơn lên, từng ngày từng kiên cố hơn. Từ đó tôi thấy : Ngài như chưa từng đến nên Ngài cũng đã chẳng ra đi. Ngài là hiện thân bậc thạc đức “Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng . Bất cứ lúc nào Ngài cũng đang có mặt, hiện trú nơi cả hai ngôi chùa Phi Lai Hòa Thịnh Phú Yên và Phi Lai TP Biên Hòa…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]