Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

55. Cảm niệm những tháng ngày… (Thích Nữ Giác Anh)

17/06/201408:38(Xem: 20833)
55. Cảm niệm những tháng ngày… (Thích Nữ Giác Anh)

Tháng 4 dương lịch của năm 2014 này, lịch sinh hoạt Pháp Bảo đầy ấp các khóa tu. Khóa tu Bát Quan Trai hằng tháng tại Pháp Bảo, khóa chuyên tu 7 ngày tại Tu viện Đa Bảo - vùng Blue Mountain và khóa tu chung 1 ngày, cũng tại Đa Bảo. Dù các khóa tu diễn ra liên tiếp, nhịp nhàng, tuy có nhiều hỷ lạc nhưng cũng không kém phần bận rộn. Thế nhưng đâu đó trong tâm thức vẫn lấp lánh khi ẩn khi hiện sự kiện báo Viên Giác - Đức Quốc số 201, kỷ niệm 50 năm xuất gia và hành đạo của HT Thích Như Điển.

Mặc dù trên bình diện quốc tế, giữa hai quốc gia Đức và Úc không có mối quan hệ gì đặc biệt, nhưng giữa chùa Pháp Bảo tại Úc và chùa Viên Giác tại Đức thì mối đạo tình gắn bó nhiều thắm thiết. Lẽ đương nhiên là vì 2 Hòa Thượng của 2 chùa là bào huynh bào đệ. Nhưng chỉ riêng điều đó thôi thì chắc cũng chưa đến độ thân thiết với hàng Phật tử, bổn đạo nhiều đến thế. Còn một nhân duyên khác nữa, là từ năm 2002 đến 2012, mỗi năm Hòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác đều qua Pháp Bảo tịnh tu dịch kinh, viết sách, thời gian từ 2 đến 3 tháng đều đặn mỗi cuối năm. Chính do nhân duyên này, nên hàng Phật tử mới có dịp được gần gũi, cũng như được học hỏi thêm Phật Pháp, chiêm nghiệm thêm về cuộc sống qua những gì Hòa Thượng để lại.

Cũng qua nhân duyên này, đạo tràng Pháp Bảo được gieo duyên với quí Thầy đệ tử của Hòa Thượng. Quí Phật tử nơi đây chắc sẽ khó quên quí Thầy TT Đồng Văn, Thầy Hạnh Giới, Thầy Hạnh Hảo, Thầy Hạnh Giả, Thầy Hạnh Tuệ, Thầy Hạnh Định, Thầy Hạnh Bổn, Thầy Tông Nghiêm, Thầy Hạnh Đức, chú cư sĩ Nguyên Trí v.v... đã cùng Hòa Thượng chia xẻ những tháng ngày ấm áp, an hòa, tràn đầy tình Sư đệ, pháp lữ nơi xứ nam bán cầu này. Giờ đây có nhân duyên nhìn lại, tận sâu trong tâm khảm, lại thêm một lần thành kính niệm ân những tháng ngày mầu nhiệm đã qua.

Người ta thường hay nói, thời gian là món quà quí giá nhất trên thế gian này. Sở dĩ thời gian quí vì mỗi giây mỗi khắc, con người đều học được bài học nào đó từ những sự việc xảy ra. Sự việc đó có thể xảy đến cho mình, nhưng cũng có thể xảy ra cho những người xung quanh. Thời gian càng lâu, việc xảy ra càng nhiều thì cơ hội được học hỏi càng cao. Nhưng tiếc thay, một khi đã học được bài học, thì thời gian qua không còn nữa, chỉ còn thời gian hiện tại là cơ hội duy nhất để thực tập bài học đó. Nếu không lại tiếp tục vấp ngã như thời gian đã qua. Người con Phật luôn có định hướng trước mắt để thời gian trôi qua trở thành những giây phút mầu nhiệm, quí báu trên con đường tu học Phật Pháp.

Hòa Thượng đã đến với Pháp Bảo từ rất lâu chứ không phải chỉ thời gian 10 năm ngắn ngủi gần đây. Mà lâu xa nhất là Hòa Thượng đã đóng vai người hướng dẫn tinh thần từ những ngày khởi đầu với những khuôn mặt tinh khôi của quí cô, quí chú Phật tử Pháp Bảo đầu tiên. Để hôm nay đã trên 30 năm, thời gian đã bồi đắp thêm biết bao nhân duyên nữa mới hình thành chùa Pháp Bảo như bây giờ. Và tiếp nối những mối duyên đó, là sự hiện diện và hướng dẫn của Hòa Thượng Bổn Sư chúng con tại Pháp Bảo trong suốt hơn 30 năm qua.

Như vậy đối với thế hệ đi sau, thời gian đó không còn giới hạn ở con số 10 hay 30 nữa, mà đã trở thành những tinh hoa, những ân tình, những cảm niệm tri ân... từ những tháng ngày chư vị tiền bối đi trước, đã để lại nền tảng với nhiều bài học quí giá cho lớp người đi sau.

Chuyện còn lại ở thế hệ tiếp nối, là mong sao những kinh nghiệm quí báu đó không trôi qua một cách lãng phí, để rồi phải tự thân tốn thời gian thêm một lần nữa mới mong học hỏi bài học kinh nghiệm cho riêng mình.

Có một câu chuyện trong Thiền môn, chuyện tuy cũ nhưng luôn là nguồn cảm hứng cho người tu Phật. Vì nhân vật trong chuyện đã thay đổi mình tỷ lệ thuận theo thời gian tu hành. Kết quả cuối cùng của nhân vật cũng chính là mục đích cuối cùng của người tu Phật.

Chuyện kể về một người tu sĩ, khi mới bước đầu vào đạo, hiểu được phần nào nền tảng giáo lý giải thoát, vị tu sĩ sau giờ công phu rời khỏi tự viện, nhìn xem cảnh trí quanh chùa, nhận định cảnh vật chung quanh thật đẹp thật yên bình, khiến ông không còn vọng tâm nhiều nữa.

Sau khi đã tu được khoảng thời gian, cũng sau giờ công phu rời khỏi tự viện, lần này cảnh vật trước mặt ông gần như nguyên vẹn không thay đổi, nhưng ông lại thấy khác! Ông thấy tất cả chỉ là duyên hội tụ, là chấp nối mọi thứ vật cảnh với nhau, nào là cây, đá, đồi đất, thú rừng… hòa hợp lại một cách khéo léo hùng vĩ, tạo thành cảnh trí mà ông cho là núi rừng sông hồ xinh đẹp yên bình ngày xưa. Bấy giờ ông nhận định cảnh vật chỉ là giả, không có gì thật, không có gì đẹp, không có gì xấu, không đáng để tâm dính mắc. Ông quay lưng bỏ đi vào tự viện, xem như không còn tha thiết nữa.

Rồi tiếp tục thời gian sau đó, việc công phu của ông vẫn đều đặn, và một hôm rời khỏi tự viện; cũng không gian ngày trước, cảnh vật thuở nào ông thường chứng kiến, nhận định theo hiểu biết của ông; thế nhưng bây giờ ông chợt thấy khác, thấy đúng cảnh vật như là cảnh vật, thấy đúng sự thật như sự thật cuộc đời. Ông vui mừng khôn tả, mừng thấy đúng lời Phật dạy, đúng chánh pháp, đúng mọi thứ do nhân duyên sinh diệt, nên không còn ghét bỏ, ưa thích, không nhận định, không phán xét, không chiều theo hư cảnh, và ngay cả tâm ý thức của chính mình. Vị tu sĩ bấy giờ không giống như ngày xưa nữa, ông an lạc, an định trong sáng dù thân thể đã già yếu đi. Ông hạnh phúc, quay vào Tự Viện, vẫn đều đặn sinh hoạt công phu như ngày nào cho đến khi duyên hết quả đến - ông chết như mọi người chết trên cuộc đời này, nhưng ông lại chết trong tịch tĩnh của Niết Bàn vi diệu.

Pháp Phật được cô đọng qua câu chuyện nhỏ, nhưng hết sức ý nghĩa, ý nghĩa giải thoát chân thật, chứ không phải giải thoát theo lý giải trên kiến thức sách vở thế gian.

Tuy nhiên vì cuộc đời đã tồn đọng theo gợn sóng ngầm của ý thức từ vô thủy cho đến bây giờ, và còn mãi nữa nếu con người không chịu dừng lại thành thật nhìn nhận cuộc đời. Cho nên con người khó thấy được chân lý Phật dạy, và càng khó hơn để nhận ra những gì rất gần gũi thường tình trước mắt, như cảnh vật con người, ngôn ngữ thế gian… chính là nhân duyên đưa đến giải thoát.

Từ khi chập chững bước vào đạo cho đến nay, ngoài Hòa Thượng Bổn Sư ra, thì HT Như Điển là người Thầy gần gũi nhất. Gần không hẳn vì Thầy là bào đệ của Thầy Bổn Sư, mà gần vì Thầy thường qua lại Úc ngụ tại chùa Pháp Bảo như đã thưa. Đặc biệt hơn nữa, chính Hòa Thượng là vị chứng minh cho lễ Xuất gia, lễ thọ giới Sa Di Ni, thọ giới Thức Xoa Ma Na và cuối cùng là Đại giới đàn thọ Tỳ Kheo Ni tại Viên Giác, Đức Quốc. Gần hết những sự kiện đáng nhớ nhất trong đời sống người tu sĩ xuất gia, đều mang dấu ấn hiện diện của Hòa Thượng.

Hôm nay chúng con kính vài lời nhân kỷ niệm một chặng đường 50 năm xuất gia và hành đạo của Thầy, chúng con chỉ biết vụng về bằng ý tưởng thường tình mà hiện nay đã và đang cố gắng học hỏi, để ý thức được những diễn tiến xảy ra trong tâm, trong thân, trong hoàn cảnh hiện thời.

Hình ảnh Thầy là hình ảnh của sự nghiêm trang tinh tấn, lại một đời thường cầu tiến học hỏi. Thầy là một trong rất ít những vị tu sĩ Phật Giáo Việt Nam hải ngoại mẫu mực trong hai thời khóa công phu hành trì. Hình ảnh đó có thể khiến người mới vào đạo khởi tâm hoan hỷ, cố gắng vượt qua những chướng ngại bản thân trên con đường thực hành đạo giải thoát.

Một điều khác nữa về Thầy khiến người lớp sau phải thường suy niệm trong đời sống thường nhật, đó là sự nghiêm thủ về giờ giấc cũng như sức làm việc miệt mài. Trong suốt khoảng thời gian Thầy tịnh tu tại Úc, hàng đệ tử thường chứng kiến Thầy cầm cây bút liên tục 3-4 giờ đồng hồ buổi sáng, thọ trai xong, rồi tiếp 3-4 giờ viết liên tục vào buổi chiều. Ngày này qua ngày khác không gián đoạn, cho đến khi hoàn tất xong tác phẩm. Hết tác phẩm này đến tác phẩm khác, Thầy cứ an vui, miệt mài như thế. Quả thật là một bài học lớn cho lớp người sau vậy.

Trong dịp kỷ niệm này, sẽ là một niềm vui lớn với Thầy. Thầy muốn chia sẻ niềm vui đó với một số người trong đạo, nhất là quý Phật tử cư sĩ có duyên xưa nay với Thầy, và hơn hết muốn các đệ tử xuất gia có dịp về lại gần vui với Thầy, mong rằng niềm vui đó sẽ được như ý. Nhưng rồi chắc cũng sẽ không tránh khỏi những điều ngoài ý muốn. Cuộc đời vốn dĩ là thế.
blank

Dù vậy thế nào thì Thầy cũng vui, vì Thầy đã đặt tâm vào đó. Và phải là tâm trạng của Thầy mới hiểu hơn ai hết. Còn nhớ những lần Thầy chia sẻ kinh nghiệm an lạc mà Thầy đã kinh qua, trong những lần tịnh tu ở Úc. Những lúc sống với chính mình, hay sống với một vài người cùng chí hướng, đó là lúc thật sự thấy được các pháp sinh diệt vô thường, vì lúc ấy người học Phật đã có duyên thấy được tâm, thấy tự ngã vi tế làm sao! Sự vi tế đột phá và lắng đọng đến lúc mà chư Thánh Tăng nhờ đó chứng Thánh quả.

Chúng con vẫn còn nhớ trong Lời giới thiệu của Thầy viết cho tác phẩm “Như cánh chuồn chuồn” của tác giả Phong Hưng Lưu Nhơn Nghĩa năm nào, Thầy viết rằng: “...Đời này chẳng có gì cả. Mặc dù có thị hiện bằng hình tướng đó, nhưng những hình tướng này cũng chỉ là một sự đối đãi mà thôi. Hãy khoan vui khi có tiếng khen. Hãy đừng buồn khi bị lời chê. Hãy khoan giận khi việc không đáng giận. Hãy đừng hờn khi biết rằng tất cả hiện tượng đều luôn luôn đổi thay và không bao giờ đứng yên một chỗ cả...”.

Tất cả các pháp đều do nhân duyên, nhân quả của nó. Nhân thiện sanh quả thiện, nhân giải thoát sẽ chiêu cảm cảnh giải thoát. Chúng con hiểu rằng, mình đã từng thọ ân và mang ân nhiều bậc Thầy. Mỗi bậc Thầy mang mỗi hạnh nguyện khác nhau. Và chính mỗi hạnh đức riêng biệt đó đem lại nét riêng cho mỗi bậc Thầy của mình. Trong suốt chiều dài sinh tử, chúng con rất cần được học hỏi từ những bậc Thầy như thế. Đời sống đâu chỉ giới hạn vài mươi năm trong cuộc đời này, mà còn bắt nguồn nhân duyên từ nhiều kiếp trước, cho đến nhiều đời nhiều kiếp về sau. Người tu Phật nào cũng hiểu, những hạnh nguyện riêng của từng bậc Thầy sẽ giúp người đệ tử bào mòn những góc cạnh còn bén nhọn, lởm chởm... trong tâm thức thô phù, trước khi hướng đến quả vị giải thoát.

Trong quá trình mài giũa, trau giồi, làm sao tránh khỏi những cảm thọ bức xúc, đau đớn... nhưng cơn đau ấy qua rồi, như viên kim cương sẽ cứng cỏi và tỏa sáng, người tu đạo cuối cùng cũng sẽ đến được mục đích an lạc và giải thoát.

Chúng con vẫn xin được mãi mãi trân quí những lời giáo huấn, những chia xẻ tâm tình của Thầy dành cho lớp người đi sau. Hằng ngày, chúng con vẫn đảnh lễ Tam Bảo, trên bàn kinh của chúng con, vẫn là một góc dành riêng lưu dấu quyển Kinh Kim Cang mà Thầy đã trì tụng hằng đêm trong suốt thời gian Thầy tịnh tu tại Úc.

Trước khi dứt lời, chúng con xin được nhắc lại câu chuyện nhỏ ở phần trên, để nguyện chúc Thầy sẽ như vị tu sĩ thưởng lãm được cái đẹp của núi rừng, mà không phải bị lôi kéo với pháp trần hữu vi, nhưng vẫn hoan hỷ trong mọi tình huống hoàn cảnh, để trở về với tâm cảnh an định mà Thầy nhất định không nhiều thì ít đã có lần trải nghiệm, trong suốt thời gian tu niệm 50 năm qua.

Xin được kính chúc quý Thầy Cô, quý cư sĩ Phật tử tại bổn tự Viên Giác luôn sống trong pháp vị giải thoát của Đấng Điều Ngự Thế Tôn.

Kỷ niệm mùa Phật Đản DL 2014,

Kính mừng Thầy kỷ niệm

một chặng đường 50 năm xuất gia và hành đạo,

TKN Thích Nữ Giác Anh

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/04/2021(Xem: 12390)
Ai đã từng làm bạn với Lưu Linh, một anh chàng uống rượu như hũ chìm trong các điển tích thơ văn? Ai đã từng làm “thơ say“ truyền cảm xúc cho những người chưa từng biết uống rượu ? Kể ra chắc nhiều vô số! Nhưng siêu đẳng vẫn là thi sĩ họ Vũ tên gọi Hoàng Chương với bài thơ say bất hủ, chỉ cần đọc lên hai câu là đã thấy tinh tú quay cuồng rồi: Em ơi, lửa tắt bình khô rượu. Đời vắng em rồi... say với ai?
14/04/2021(Xem: 10834)
Đã hơn 45 năm kể từ 1975, nhắc lại chuyện vượt biên quả là xưa như trái đất, xưa quá rồi diễm, nhiều người chẳng muốn nghe, đôi khi còn trách, chuyện qua rồi hãy cho vào dĩ vãng nhắc lại làm gì cho thêm buồn, “quá khứ đã qua, tương lai chưa đến, hãy nghĩ và sống với hiện tại”. Thế nhưng đâu ai hiểu cho rằng, hiện tại của tôi bây giờ chính là phải viết bài cho ngày 30/4 để đăng báo, mà 30/4 vấn đề tuy cũ kỹ nhưng muôn thuở vẫn luôn có giá trị vì đó là lịch sử và chuyện vượt biên cũng đóng góp trong phần lịch sử đó. Luẩn quẩn là như thế. Và biết đâu, giữa khi mọi người đã quên thì tôi nhắc lại cho mọi người nhớ, và biết đâu giúp các thế hệ sinh sau đẻ muộn hiểu chút ít về lịch sử nước nhà trong giai đoạn đau thương của đất nước, thống nhất lãnh thổ nhưng không thống nhất lòng người đã để lại hận thù, chia cách không biết khi nào mới hàn gắn được và là nguyên nhân tại sao cha mẹ ông bà chúng lại lưu lạc xứ người và ra đi làm sao. Cây có cội, nước có nguồn, là con người ai cũng muốn biết c
01/04/2021(Xem: 10059)
Bài chúc Tết của NS Hoài Linh gây xôn xao MXH: Tự làm thơ hơn 7000 chữ, nhắc đủ 63 tỉnh thành với kiến thức sử địa quá uyên thâm! Trong dịp đầu năm mới, đông đảo các nghệ sĩ trong showbiz Việt đã gửi những lời chúc bình an, sức khoẻ đến với người hâm mộ. Thế nhưng ấn tượng và được netizen chia sẻ nhiều nhất chính là bài thơ chúc Tết được đầu tư và vô cùng sáng tạo của NS Hoài Linh. Ngoài tài làm thơ, NS Hoài Linh còn chứng minh có kiến thức lịch sử và địa lý uyên thâm khi chúc Tết theo đặc trưng từng tỉnh thành ở Việt Nam. Từ những thành phố lớn, đến vùng núi xa xôi, loạt danh lam thắng cảnh, lịch sử thành lập hay đặc nét riêng vùng miền đều được NS Hoài Linh đưa vào bài thơ mang tên Chúc Xuân một cách tài tình. Ngay lập tức, màn chúc Tết có tâm nhất Vbiz của NS Hoài Linh được người hâm mộ "thả tim" và chia sẻ rầm rộ trên MXH. Sau hơn 1 giờ đăng tải, bài thơ chúc Tết hơn 7000 chữ và gần 500 câu của NS Hoài Linh đã nhận được 86 nghìn lượt yêu thích, hàng chục nghìn bình lu
22/03/2021(Xem: 7076)
Được Nhạc sĩ Minh Huy gửi tặng bản nhạc Tạ Tình với lời bài thơ và lời bản nhạc có khác nhau một ít. Lời nhạc tình hơn, nhưng lời bài thơ bảy chữ hay một cách tuyệt vời. Đọc lời bài thơ, người viết thật xúc động, nhưng khi lắng nghe tiếng hát như tự tình trang trải của Ca sĩ Chi Huệ thì tâm hồn người viết lại chìm vào khung trời ngày cũ của “con đường Duy Tân cây dài bóng mát” trước năm 1975 tại Sài Gòn.
16/02/2021(Xem: 4821)
Kịch hài: Đưa Chồng Tây Về Quê Ăn Tết. Trần Thị Nhật Hưng Một màn. Diễn viên: Cô con gái Việt, cậu rể Tây và mẹ cô gái. Khung cảnh: Phòng khách nhà người mẹ tại Việt Nam *** (Vợ chồng cô con gái kéo va ly bước ra sân khấu.Người mẹ cũng vừa bước ra đối diện nhau). Mẹ (tíu tít): Sa luy...sa luy...(Salü...salü: Chào...chào...) Con rể Tây: Gút tơn tát. Vi kết ét tia. Ít phờ rôi mít tia khên nơn su le rờ nơn (Guten Tag. Wie geht es Dir? Ich freue mich Dir kennenzulernen: Chào mẹ. Mẹ có khỏe không? Rất hân hạnh được quen biết mẹ) Mẹ (trố mắt ngạc nhiên, nhìn con gái): Nó nói gì dzậy? Con gái: Sao má gọi ảnh là...nó, không lịch sự tí nào. Mẹ: Ảnh...nói gì dzậy? Con gái: Chồng con chứ đâu phải chồng má mà má gọi bằng...ảnh.
15/02/2021(Xem: 10254)
Trong vườn hoa thì có nhiều hoa và có muôn màu muôn sắc khác nhau. Vườn hoa lúc nào cũng đượm mùi thanh nhã, thì vườn thơ cũng không khác gì vườn hoa. Tuy nhiên nói về thơ hay định nghĩa về thơ thì rất khó ; do đó, chúng ta nhìn về thơ thì cũng tựa như ta nhìn vị họa sĩ qua cây cọ hay là nghe tiếng đàn qua vị nhạc sĩ đang hòa tấu. Những thập niên trước đây, khi ra hải ngoại, mỗi lần đi hướng dẫn những khóa tu tập, sau giờ giải lao, có những vị Phật tử vui tính xin giúp vui giải lao bằng những lời ca tiếng nhạc hay âm điệu ngâm nga những câu thơ của chư Tôn đức sáng tác, hoặc tự thân họ làm ra để giúp bầu không khí tu tập thêm phần sinh động. . . .
03/02/2021(Xem: 19835)
Vừa qua nhóm ảnh Nhất Chi Mai thuộc tu viện Phước Hòa (Đồng Nai), được sự hướng dẫn của Thượng toạ Viện chủ đã đến Buôn Mê Thuột để quay những thước phim đầu tiên về nhạc sĩ Hằng Vang. Cùng với cố nhạc sĩ Lê Cao Phan, Bửu Bác... được xem như lớp tiền phong của dòng tân nhạc Phật giáo. Nhạc sĩ Hằng Vang tên thật là Nguyễn Đình Vang, sinh năm 1933 tại Huế. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông có hàng trăm ca khúc về đề tài này, nổi bật nhất là ca khúc Ánh Đạo vàng (1958) đã thấm sâu vào lòng Phật tử suốt thời gian dài từ khi ra đời.
01/02/2021(Xem: 6305)
Đối với những dân tộc sống trong nền văn minh lúa nước tại Đông Nam Á, nhất là đất nước và con người Việt Nam, hình ảnh con trâu, thường hay được nói đến, không phải “con trâu là đầu cơ nghiệp” mà đối với người nông dân là con vật gần gũi thân thiết, nên trong ca dao trâu xuất hiện trong bức tranh lao động của gia đình “trên đồng cạn, dưới đồng sâu, chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa”, trâu cũng trở thành bạn tâm tình của người nông dân: “trâu ơi ! ta bảo trâu này…” Người nông dân đã đồng cảm với trâu, qua việc cần mẫn lao động hằng ngày, không có lúc nào hưởng được sự thảnh thơi mà phải luôn vất vả nhọc nhằn. Hình ảnh con trâu kéo cày trên ruộng đồng với lúa, mạ xanh tươi, hay đứng nằm gặm nhai cỏ trên bãi cỏ xanh, cùng giầm mình trong vũng ao hồ sình lầy là hình ảnh quen thuộc, gợi lên nhiều cảm xúc thị vị thanh bình tạo cảm hứng cho biết bao thi nhân và họa sĩ.
01/02/2021(Xem: 7606)
Chữ “chùa” thường dễ khiến người ta liên tưởng đến những… chữ khác như kinh-kệ-chuông-mõ-sư-sãi…Xa hơn, có thể gợi nhớ đến chữ… thơ (vì, tu sĩ và thi sĩ vốn là bằng hữu, trong truyền t
01/02/2021(Xem: 8854)
Vào năm 1990, một nhà sư trẻ đến thị xã Lagi – Bình Thuận, dừng bước bên con suối Đó vắng vẻ, cảnh quan đơn sơ, mộc mạc, cách xa trung tâm Lagi. Con suối có cái tên hơi lạ, tên nguyên sơ là suối Đá do chảy qua nhiều tảng đá to, sau này khi người Quảng đến định cư, đọc chệch thành “suối Đó”. Vị sư trẻ dựng một thảo am bên cạnh con suối, cao hứng đặt tên thảo am là chùa Đây, tạo thành một cái tên hay hay và lạ mà du khách đến một lần không thể nào quên “suối Đó – chùa Đây”. Sau này, thảo am nhỏ được trùng tu dần thành một ngôi chùa trang nghiêm và tĩnh lặng với cái tên mang lại cho người ta cảm giác an nhiên tự tại khi nhắc đến như hôm nay – chùa Thanh Trang Lan Nhã.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]