Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

39. Như một dòng sông (Thiện Diệu Trần Thị Lệ Hương)

17/06/201408:01(Xem: 18920)
39. Như một dòng sông (Thiện Diệu Trần Thị Lệ Hương)

 

 Vào năm 1984, lần đầu tiên đến chùa dự lễ Phật Đản (lúc ấy chùa còn là một ngôi nhà nhỏ thuê lại từ một hãng xưởng tọa lạc tại đường Eichelkamp). Khi đi vào chánh điện của Chùa tôi lặng nhìn những hình ảnh hùng vĩ, đầy trang nghiêm thanh tịnh, rồi mải mê nhìn bỗng phía sau lưng tôi có tiếng nói: „Đến chùa thấy Phật mà không lễ lạy thì không ra gì hết“. Tôi quay đầu nhìn lại thì thấy một vị sư trẻ khoảng ngoài 30 tuổi (sau này tôi mới biết đó là sư trụ trì Chùa Viên Giác).

 Lúc ấy tôi rất buồn vì lần đầu tiên đến chùa bị nói một câu oan ức, nhưng cũng nhờ vào câu nói đó như một lời khai thị mà tôi phát tâm tu tập, tuy nhiên Pháp Phật thì vô biên, còn tôi thì hữu hạn, những gì tôi học được từ quý Thầy như một hạt cát từ đại dương mênh mông. Rồi theo thời gian, phật sự ngày càng thêm đa đoan, người tỵ nạn ngày càng đông, nhu cầu tâm linh càng đòi hỏi nhiều, nên Thầy đã phát nguyện mở rộng ngôi nhà Phật Pháp, để đáp ứng nhu cầu của những người con Phật, và nhất là cho những người Việt tha hương có nơi nương tựa về đời sống tâm linh. Với đôi bàn tay nhỏ bé, bằng một con tim đầy từ bi yêu thương, bằng một ý chí tha thiết Thầy đã không từ chối một sự hy sinh nào. Thầy đi từng tỉnh, từng nơi để quyên góp tịnh tài về xây chùa, có những nơi cúng dường Thầy bằng tất cả tấm chân tình, thành kính của những người con Phật, nhưng cũng có những người buông ra những lời miệt thị, mỉa mai đầy chua xót. Đứng trước những nghịch cảnh này Thầy vẫn hoan hỷ không một lời than trách. Với tâm nguyện tự độ và độ tha Thầy đã đi suốt mấy mươi năm trên đường đạo không một phút ngưng nghỉ, mỏi mệt không làm chùn bước trước nguyện lực cao sâu của Thầy. Rồi ngôi Tam Bảo cũng được hoàn thành, khang trang, rộng rãi để có thể chứa được một lượng người đến từ nhiều nơi trên thế giới. Hằng năm những ngày đại lễ Phật tử về dự lên đến hơn ngàn người, rồi những khóa tu học cũng được phát triển thêm lên.

 Khi Chi Hội Phật Tử Reutlingen thành lập, Thầy về hướng dẫn Phật tử tu Bát Quan Trai giới lần đầu tiên, Thầy chỉ dạy chu đáo từ những việc sắp xếp cho buổi ngọ trai cũng như lễ lạy, bái sám. Rồi tiếp theo những Chi Hội khác ra đời. Hằng tuần Thầy đi luân phiên từng Chi Hội để hướng dẫn tu học cho hàng Phật tử tại gia. Thời gian có làm cho Thầy già đi, nhưng bước chân của Thầy vẫn kiên vững trên con đường đạo nhiều chông gai.

 Đứng trước nhị nguyên đối đãi của cuộc đời, con người luôn sống trong sự phân biệt khen chê. Hợp với những nhu cầu của chính mình thì cho là đúng, là hay; nhưng nếu ngược lại thì chê bai, chỉ trích, sống như thế nào cũng không vừa lòng người. Tôi còn nhớ một câu chuyện thời Đức Phật: Có một người Bà La Môn đến mắng Đức Phật thậm tệ, ngài A Nan đứng bên hầu Đức Phật nghe mà thấy xót xa trong lòng, nhưng không dám lên tiếng. Khi vị Bà La Môn mắng xong ra về, ngài A Nan hỏi đức Phật tại sao người ta mắng thậm tệ như vậy mà Đức Phật vẫn im lặng không trả lời. Lúc bấy giờ đức Phật

mới ôn tồn nói với ngài A Nan: „Này A Nan khi có một người mang mâm cao cỗ đầy đến mời A Nan dùng, nếu A Nan không dùng thì mâm cỗ ấy thuộc về ai?“. A Nan trả lời: „Thưa Thế Tôn thuộc về họ“. Thế Tôn đáp: „Cũng vậy, nếu ai đó mang đến cho ta toàn là những lời phỉ báng, trách móc, nếu ta không nghe, không để vào tâm những lời nói thô ác ấy, thì lời nói đó thuộc về người nói, chứ có động gì đến ta đâu“.

 Ở bất cứ thời đại nào, lời khen chê cũng luôn tồn tại, thuận ta thì sống, nghịch ta thì chết có vậy thôi, chỉ khi nào tự mình biết tu, biết phản quang tự kỷ, biết người biết mình thì trăm trận trăm thắng.

 Thầy cũng vậy, nghịch cảnh là thước đo của chính Thầy, đứng trước những lời nói không đẹp thầy vẫn an nhiên tự tại, không vui khi được người khen, cũng không buồn khị bị người chỉ trích. Dòng đời thì cứ trôi, riêng Thầy thì đã bước ra được cái nhị nguyên đối đãi của cuộc sống để rồi tiếp tục sứ mạng của Như Lai giao phó. Thầy nghiêm trì giới luật, vì giới luật là ngọn đuốt soi đường, là dòng nước thanh lương tưới tẩm những hạt giống tốt trong tâm thức của Thầy.

 Thầy luôn tâm niệm rằng: “Niệm Phật một câu phước sanh vô lượng, lạy Phật một lạy tội diệt hằng sa”, và đó cũng là lời dạy của Thầy tôi, tôi luôn nằm lòng lời dạy này, mỗi ngày vẫn niệm Phật, lạy Phật, tuy chưa làm được như Thầy. Kinh Pháp Hoa Thầy mỗi chữ mỗi lạy, trong mùa an cư Thầy lạy Đại Bát Niết Bàn cũng mỗi chữ mỗi lạy, nhưng tôi cũng có thực hành một chút lời chỉ giáo của Thầy.

 Tôi còn nhớ trong chuyến hành hương tháng 12 vừa qua, khi phái đoàn đến Cực Lạc giới Tự Thái Lan để tu học 4 ngày, Thầy biết rằng phật tử Âu Mỹ rất ưa thích trái cây của quê hương, Thầy đã đưa tiền nhờ các chị sống ở Thái Lan mua trái cây đủ loại cho Phật tử Âu Mỹ ăn cho thỏa lòng mong nhớ, từ những việc nhỏ nhặt như quan tâm đến việc ngủ nghỉ, ăn uống cũng đủ nói lên được tấm lòng đại từ đại bi của Thầy, Thầy chăm sóc lo lắng cho mọi người trong suốt chuyến đi. Và chỉ với ước vọng duy nhất là mọi người đều được lợi lạc, an vui khi bước chân đến xứ Phật, Thầy sống và hành theo lời chỉ giáo của Đức Từ Phụ Thích Ca, đem cả cuộc đời nầy hiến tặng cho Tam Bảo, cho Phật Pháp và cho dân tộc.

 Viết về Thầy thì còn nhiều lắm, suốt 30 năm theo Thầy học đạo, những vui buồn của thế gian cũng dần dần bớt bị ảnh hưởng, bởi vì Thầy đã trao truyền lại trong tôi những hạt giống tốt mà Thầy đã gieo, mặc dù tôi đôi khi cũng còn bị điên đảo bởi đối đãi nhị nguyên của cuộc đời. Thầy luôn hiện hữu trong tôi, và mong rằng tôi luôn luôn được nghe những lời chỉ giáo của Thầy để làm kim chỉ nam cho chính mình.

 Thầy sẽ đi như một dòng sông và luôn chuyên chở những hương hoa, vị ngọt của cuộc đời để tiếp tục trao truyền cho hậu thế. Mong rằng ngôi nhà Phật Pháp luôn vững mạnh và tồn tại dài lâu.

 Trời đã vào tháng 5 rồi, có được ít nắng, rồi lại ba bốn ngày mưa, trời Âu hình như hiếm nắng, cũng vậy tình người khi nắng khi mưa. Tuy nhiên có được chút nắng ấm dù sao cũng đã quý lắm rồi.

 Nguyện đem công đức này, hướng về khắp tất cả, đệ tử và chúng sinh, đều trọn thành Phật đạo. 

 Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Bồ Tát Ma Ha Tát.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/12/2012(Xem: 3528)
Khách là một đại hán vạm vỡ, vận chiếc trường bào màu xám tro, nước da đen sạm; ngựa là một loại thiên lý câu sắc hung sẫm, bờm cao, bụng thon, lưng dài. Cả hai hình như đã vượt qua hằng ngàn dặm đường nên khi đến địa phận Trấn ma lâm, vó gõ trên mặt dốc sỏi không còn ngon trớn nữa mà chậm dần, chậm lại dần... Đến góc núi, bỏ đường lớn, người và ngựa thong thả nước kiệu qua ngọn đồi tràm và thông mọc lưa thưa chen lẫn đá hoa cương và đá tổ ong.
28/11/2012(Xem: 5142)
Trong tác phẩm Những tư tưởng gia vĩ đại của Phương Đông (Great thinkers of the Eastern world) tác giả IAN P. Mc GREAL đã nhận định rằng: “Toàn bộ thơ Tagore là những lời tình và ông đã tự nhận là người tình của nhân loại.”[1]
10/11/2012(Xem: 4026)
Đến bây giờ, tôi vẫn còn nhớ như in, hồi nhỏ sống trong căn nhà tranh nơi một làng quê nghèo khổ ở miền Trung. Vào những buổi xế chiều cuối tháng 6 hoặc đầu tháng 7 âm lịch, mẹ tôi hay vắng nhà, bà đi ra đồng nhổ cỏ ruộng hoặc hái rau. Còn lại một mình ở nhà, không biết làm gì, tôi thường leo lên nằm trên chiếc võng treo ngay nơi cửa chính ra vào. Tôi nằm yên nhìn những đám mây đen đang tụ lại nơi những rặng núi xa ở phía Tây, những đám mây đó như báo hiệu những ngày đông giá rét lê thê đang sắp đến nơi làng quê nghèo khổ này. Thỉnh thoảng tôi còn nghe những tiếng sấm từ chân trời xa vọng lại.
05/11/2012(Xem: 3543)
Họ, bắt đầu gồm 7 người, chúng tôi hay gọi đùa là “thất tiên„. Nhưng toàn là tiên…bị đọa, là đà dưới đất mấy chục năm rồi, dễ chừng đã trên 50, 60 có tiên còn trên 70 năm. Các tiên không ở…cõi trên múa lụa, chỉ nằm dưới trần múa bút (đã bảo bị đọa mà!). Vâng, đúng vậy, họ là những cây bút nữ báo Viên Giác Đức quốc chuyên cầm bút múa may quay cuồng trên báo Viên Giác. Rồi một ngày đẹp trời, họ được Hòa Thượng Phương Trượng cùng anh chủ bút Phù Vân gom lại “múa chung„ qua tác phẩm “Những Cây Bút Nữ Báo Viên Giác „ (đó là cuốn 1)
03/11/2012(Xem: 3472)
Nhưng nếu trước khi xuất gia, Toàn Nhật đã từng làm tướng rồi sau đó mới “tuốt dép lánh xa khỏi nơi doanh liễu”. Vậy thì bây giờ ta thử xem Thiền sư Toàn Nhật đã làm tướng cho triều đại nào? Theo tác giả Toàn Nhật Quang Đài, trong những tác phẩm đã tìm lại được thì chỉ có tác phẩm Xuất gia tối lạc tỉnh thể tu hành vãn là Toàn Nhật có nhắc đến triều đại nhà Nguyễn: Ấy triều đại cổ kim thật lục Nối truyền qua bản quốc Nam thiên Những vì thánh chúa tôi hiền Tượng kinh tôn trọng chùa chiền nghiêm trang.
02/11/2012(Xem: 3901)
Cách đây hơn một năm, nhân dịp vào Sài gòn, tội nhờ một người thân, dù sanh ra và lớn lên sau 1975 nhưng lại rất say mê thơ Hòai Khanh ( thầy NM) Chở tôi đi Biên Hòa để thăm Hòai Khanh. Mặc dù đã đọc thơ và quen biết từ nhữnng năm đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, nhưng tôi chưa có dịp nào đến Biên Hòa để thăm ông, dù những câu thơ của ông nói đến đất Biên Hòa thì tôi đã đọc từ lâu lắm rồi: Tôi về vun xới vườn hoa Cho em là gái Biên Hòa, Hàm Tân Cho tôi là kẻ cô thần Nằm đây gởi mộng dậy ngàn sương xanh
28/10/2012(Xem: 4018)
Ông Don Jacquish ở Mỹ đã tỉ mẫn trồng hàng cây số hoa hướng dương để phục vụ khách tham quan gây quỹ nghiên cứu bệnh ung thư, sau khi vợ ông qua đời.
15/10/2012(Xem: 5185)
Sáng nay, 11-10-2012, đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (China Central Television’s – CCTV) thông báo tin nhà văn Mạc Ngôn (Mo Yan) đang sinh sống ở Bắc Kinh được giải thưởng Nobel Văn chương năm 2012 chỉ cách 10 phút sau khi Hàn Lâm Viện Thụy Điển thông báo tin trúng giải. Tiếp theo là báo chí toàn quốc Trung Hoa đã rộn ràng thi nhau không tiếc lời ca tụng “vinh dự nước nhà”.
10/10/2012(Xem: 11026)
Không hiểu tại sao người ta gọi con vật ấy là chó. Cái tên này không gây nên một ấn tượng đẹp theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nhất là đối với tôi, một người không mấy ưa loài động vật này. Lý do, có lẻ từ một kỷ niệm thuở mới lớn.
03/10/2012(Xem: 5264)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]