Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

09. Kính mến Thầy (Nguyên Hoằng)

17/06/201403:39(Xem: 18024)
09. Kính mến Thầy (Nguyên Hoằng)

GĐPT Tâm Minh, một đứa con tinh thần, được Hòa Thượng Phương Trượng Chùa Viên Giác thành lập và dạy dỗ hơn 25 năm qua. Tôi đến với đoàn thể Áo Lam và sinh hoạt tại đây được trên 20 năm. Nhân ngày lễ chúc thọ lần thứ 66 và lễ kỷ niệm 50 năm xuất gia của Thầy, thiết nghĩ cũng nên viết một bài kính dâng tặng, tỏ lòng tri ân của chúng con đến Hòa Thượng.

Khi nhắc đến Thầy, danh xưng Hòa Thượng Phương Trượng, hay Hòa Thượng Thích Như Điển thì anh chị em đoàn viên GĐPT Tâm Minh chúng tôi ít khi dùng đến. Thường chúng tôi sử dụng danh từ "Sư Ông" cho thân tình và trọn vẹn sự tôn kính. Dần rồi quen, nay các em ngành Thiếu và ngành Oanh chỉ biết Pháp Tự của: Thầy Hạnh Tấn, Thầy Hạnh Luận, Thầy Hạnh Giới, Thầy Hạnh Lý... Còn Hòa Thượng, với các em chỉ đơn giản là "Sư Ông" hay là "Sư Ông Viên Giác".

Sinh hoạt và ở gần Thầy, anh chị em chúng tôi học được nhiều qua thân và khẩu giáo của Ngài. Sư Ông xưa nay, nổi tiếng là một vị Thầy khó tính và nghiêm nghị. Khi nhắc đến điều này, không ít người lắc đầu, lè lưỡi. Đúng vậy, Thầy không nói nhiều, thí dụ trong giờ thính Pháp, ai đó đang nói chuyện riêng, hoặc không tập trung, thì chỉ một cái liếc mắt của Thầy, chúng tôi nhận ra ngay và tự chấn chỉnh lại thân tâm, rồi nhắc người bạn của mình hãy trở về với hiện tại. Lắng nghe là một nghệ thuật, nó thể hiện sự tôn trọng của mình với người đang trình bày.

Cũng vậy, giữ đúng giờ là biết tôn trọng người khác. Người Việt chúng ta có danh từ "giờ dây thun", nói ra ai cũng hiểu. Tôi nghĩ rằng trong tự điển tiếng Việt của Thầy không có danh từ này. Có thể nó đã bị xóa đi sau một thời gian, lúc Thầy còn ở Nhật chăng? Tôi còn nhớ, lâu lắm rồi, lúc ấy Thầy về Chi Hội PTVN để làm lễ cầu an định kỳ hằng năm. Tôi được quý bác phân công bưng mâm Thỉnh Sư, thời gian đầu nghi thức đơn giản, không có phần tác bạch như bây giờ. Trước giờ lễ 5 phút Thầy đắp Y và ngồi chờ ở hậu trường, nhang đèn đã được thắp xong. Quá giờ lễ gần 10 phút, quý Phật tử ở phía ngoài vẫn còn xôn xao, chưa vào hàng ngũ. Thầy xem đồng hồ rồi khẻ lắc đầu nói: "Ở Chùa Viên Giác không bao giờ xảy ra chuyện này". Vậy mà trong suốt buổi giảng Pháp ngày hôm ấy, tôi không nghe Thầy nhắc nhở đến sự trễ nải này. Rồi thời gian dần qua, các Phật tử về chùa tu tập, tự nhận biết sự đúng giờ của Thầy. Có lẽ sau này các Ban Tổ Chức phải cho đồng hồ của mình chạy nhanh hơn 5 phút khi thỉnh Thầy về địa phương. Những gì thiếu thì mình thường quý, có người rất thừa thời gian, không biết làm gì cho hết ngày. Riêng với Thầy thì khác, thời gian của Người rất quý. Thầy thường nói với anh em chúng tôi: „Hiện nay cái gì Thầy cũng có đủ, chỉ thời gian là thiếu thôi. Người ta nói thời giờ là vàng bạc rất là đúng, quý lắm, các con đừng bỏ phí nó“. Thời gian không ai tặng mình được và chúng ta cũng không thể cất giữ nó để dùng từ từ. Qua những điều răn dạy đó chúng tôi tập giữ sự đúng giờ.

Đúng hẹn và giữ lời hứa là một đức tính mà chúng tôi nhận thấy ở Người, dù chỉ là một lời hứa với các em đoàn sinh GĐPT không bao giờ Thầy quên. Nếu chỉ hứa qua loa cho xong là điều Thầy không thể chấp nhận được. Những người hay hứa „cuội“ đồng nghĩa với sự xem thường người khác và dần đánh mất đi sự tin tưởng mà mọi người đang dành cho họ. Có một lần chúng tôi thỉnh mời Thầy và quý Tăng Ni Chùa Viên Giác về vườn nhà để có cơ duyên gần gũi với Chư Tôn Đức. Sau khi xem lịch bỏ túi, Thầy ghi vào đó, cách ngày ấy vài hôm, có việc Phật sự bất thường, vì không thể thiếu sự hiện diện của Thầy được, Thầy đã gọi điện thoại, báo tin và lấy làm tiếc sẽ không có mặt với gia đình. Dù bận rộn như thế nào Thầy vẫn nhớ và đích thân gọi điện, làm cho hàng Phật tử chúng tôi rất hoan hỷ, ngày hôm ấy Quý Thầy ghé thăm và một lần nữa chuyển lời xin lỗi của Sư Ông. Thầy là vậy, ở một địa vị cao quý, Thầy vẫn đơn giản bình dị luôn quan tâm đến tất cả mọi người như lúc xưa. Những việc nhỏ như liên lạc với các Phật tử Thầy thường tự gọi điện thoại và tự chính mình đến thăm hỏi khi nghe tin ai đó đang lâm bịnh. Những lúc đi Phật sự ở phương xa, Thầy viết thư thăm hỏi và chia sẻ với các Phật tử khi trong gia quyến có người ra đi. Những ai nhận được lời thăm hỏi và sự quan tâm này cũng ấm lòng.

Nói về sự tu tập của Thầy chúng tôi phải bái phục với hạnh nguyện lạy kinh của Người. Bây giờ Thầy đã vào tuổi 66, trong thời gian an cư, mỗi tối bắt đầu từ 20:00 Ngài hành trì không dưới 300 lạy. Chúng tôi, những Phật tử còn trẻ khỏe, muốn „theo gót Ngài“ phải toát mồ hôi. Ngày thọ bát quan trai được thông báo, không ai ngán gì, chỉ sợ phải „lạy kinh đêm nay“. Trong thời gian đầu, sau khi thọ Bát Quan Trai giới xong, Thầy thường ra cho các giới tử một bài sám để học thuộc. Hôm sau, sẽ được khảo trong giờ xả giới. Thế nên sau đó, mỗi người một quyển kinh trên tay, tìm một góc yên tịnh chăm chú học, không ai còn thời gian để nói chuyện phiếm nữa. Cũng nhờ vậy cho nên sau này, những giờ tụng kinh, khi vị chủ lễ bắt một bài sám, phần lớn chúng tôi đều tụng theo được. Theo cách hướng dẫn đó, các em Oanh vũ của GĐPT Tâm Minh bây giờ cũng được các anh chị trưởng khuyến khích học kinh. Các em luôn được phần thưởng sau khi học xong một bài chú, bài sám.

Lúc xưa, khi hỏi thăm về sự sinh hoạt của chúng tôi tại chùa, có vị tò mò hỏi: „Thế các anh chị em có hay bị Sư Ông rầy không?“, chúng tôi thường trả lời rằng: „Ở gần mặt trời thì dĩ nhiên là nóng rồi!“. Có người lại hỏi thêm: „Nóng nhưng sao vẫn bám trụ và thường xuyên về Chùa?“. Chúng tôi chỉ mĩm cười và nói: „Các anh chị muốn biết tại sao thì về với chúng tôi một thời gian sẽ biết thôi“. Mặt trời đem lại cho chúng ta ánh sáng để nhận rõ mọi vật, xóa đi màn vô minh và cho sự ấm áp nữa. Dù có nóng, người ta, ai cũng tìm cách đến gần mặt trời mà. Chúng tôi đang có được duyên lành đó, tại sao phải tránh xa? Có lẽ vì đi đâu người ta thường gọi chúng tôi là „Phật tử của Chùa Viên Giác“ cho nên Thầy muốn chúng tôi xứng đáng với cái tên ấy thôi. Điều ấm áp mà Thầy dành cho GĐPT Tâm Minh là ngày 01.05. hằng năm, vào ngày ấy, Phụ huynh và GĐPT Tâm Minh chuẩn bị đồ ăn trưa, tập trung tại chùa rồi cùng quý Thầy Cô đến một địa điểm Picnic đã chọn trước. Các em nhỏ tha hồ chạy nhảy leo trèo. Đến trưa mọi người quây quần với nhau, trải chiếu trên một bãi cỏ vừa thưởng thức những món ăn ngon vừa trao đổi những chuyện vui. Sau này Thầy thường đi Phật sự tại Hoa Kỳ, không có thời gian với chúng tôi nữa. Quý Thầy Hạnh Tấn và Thầy Hạnh Giới vẫn tiếp tục truyền thống ấy, các GĐPT ở xa chùa không có được niềm hạnh phúc này.

Dù đi xa nhưng Thầy luôn nghĩ về Chùa Viên Giác. Đi đâu, được ai tặng gì, Thầy cũng nhận và không ngại sự nặng nhọc, mang về làm quà cho Phật tử. Có lần từ Thái Lan về, Thầy mang theo một trái mít thật to để làm quà cho quý Phật tử chùa Viên Giác. GĐPT Tâm Minh thì nhận được vải lam để may áo, các em thì được tặng những món quà kỷ niệm từ xứ Úc xa xôi hoặc những phong kẹo chocolate ngon ngọt từ Thụy sĩ... Tình thương và sự ấm áp của Thầy dành cho chúng tôi còn nhiều lắm.

 Lúc bắt đầu bài viết này, điều đầu tiên tôi liên tưởng đến là lời phát nguyện của Thầy: "Con xin nguyện mình làm dòng sông để chuyên chở những trong đục của cuộc đời và con xin nguyện làm mặt đất để hứng chịu những

 

CÁO PHÓ

 

Gia đình chúng tôi vô cùng thương tiếc báo tin đến

thân bằng quyến thuộc là:

 

Bà LƯƠNG TƯ PHẤN

Nhũ danh Bùi Thị Ngọc Loan

Pháp danh Minh Tỉnh

 

Sinh ngày 10 tháng 11 năm 1924 tại Hà Nội

Đã tạ thế vào lúc 19 giờ 30 ngày 19 tháng 4 năm 2014 (nhằm ngày 20 tháng 3 năm Giáp Ngọ)

 tại Marbach, CHLB Đức

Thượng thọ 90 tuổi

 

Tang lễ sẽ được cử hành vào Thứ Sáu, ngày 25 tháng 4 năm 2014 lúc 10 giờ 30 tại nghĩa trang Neuer Friedhof – Ludwigsburg

 

 Tang gia đồng khấp báo

 

Trưởng nam : Lương Nguyên Hiền, vợ Châu Mỹ Oanh.

 Cháu nội: Hùng Sơn

Trưởng nữ : Lương Thị Minh Thu, chồng Nguyễn Văn Cảnh

Thứ nữ : Lương Thị Thúy Hoài, chồng Mai San

 Cháu ngoại: Melissa Thúy Anh, Thế Tâm

Thứ nữ : Lương Thị Ngọc Thịnh, chồng Phạm Văn

 Phú

 Cháu ngoại: Đông Triều, Tố Mai

Thứ nam : Lương Minh Thiện

Thứ nam : Lương Minh Hải, vợ Nguyễn Lê Diệu Tú

 

Cáo phó này thay thế thiệp tang

 

 

sạch nhơ của nhân thế". Tôi chiêm nghiệm điều này, trong dòng sông hay trong lòng đất không chỉ chất chứa những đục nhơ và độc hại do con người và thiên nhiên thải ra mà thôi, ngược lại nó còn chu cấp biết bao nhiêu chất dinh dưỡng và cũng là nơi nương tựa vững chắc để thế giới này có thể hiện hữu và sinh tồn. Tổ chức GĐPT tại Đức được Thầy khai sinh và hướng dẫn từ buổi ban đầu. Những khi gặp khó khăn hay bế tắt thì Thầy là người khuyên nhủ và tháo gở gút mắc. Với chúng tôi Thầy là dòng sông, cho chúng tôi những giọt nước trong mát, ngon ngọt. Thầy là mặt đất để giúp chúng tôi vững bước tiến tới trên con đường tu học.

 …

Thầy là bóng cây che mát chúng con,

Thầy là ánh sáng dắt dìu lòng son,

Thầy là con thuyền thanh lương đưa chúng con đến bờ thơm hương,

Thầy theo hạnh nguyện Pháp Vương, treo gương tròn sáng soi mười phương.

 

Những lời trong bài hát “Kính mến Thầy“ đã gói trọn những gì chúng tôi muốn nói về Thầy.

 

Thành kính tri ân

Nguyên Hoằng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/04/2022(Xem: 3405)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế (58-75) căn cứ vào sự kiện vua nằm mộng thấy một người thân vàng ròng bay vào cung điện. Có vị cận thần tâu đó là đức Phật ở xứ Thiên Trúc - đấng Giác ngộ trên cả trời người. Vua liền sai người đến Tây Vực tìm cầu Phật pháp. Thật ra, Phật giáo vào Trung Quốc trước cả đời Hán Minh Đế. Lúc bấy giờ, Đạo giáo đang rất thịnh hành. Thời điểm này, Phật giáo chỉ thuần là một loại tôn giáo tế tự, học thuyết đặc thù của Phật giáo chỉ là quỉ thần báo ứng, gần với thuật cúng tế, bói toán của Trung Quốc. Vì thế, tăng sĩ Phật giáo cùng hoạt động song hành với các đạo sĩ của Đạo giáo. Tín đồ Phật giáo yêu chuộng cả đạo sĩ của Đạo giáo, nên cả hai đều hoạt động mạnh mẽ trong hoàng tộc, chứ không ảnh hưởng lớn đến dân chúng.
09/04/2022(Xem: 5973)
Mục đích của cuộc thi giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các việc xảy ra trong đời sống xã hội hàng ngày, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ ứng dụng sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Các thể tài có thể gợi ý như là chuyện công ăn việc làm, chuyện gia đình, học đường, chuyện về đại dịch hay chuyện trong nhà ngoài phố.v.v.. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được cách ứng dụng giáo lý vào đời sống hàng ngày.
01/04/2022(Xem: 9262)
Nếu có những khúc ngâm đoạn trường trong văn học thi ca làm cho người đọc qua nhiều thế hệ trải mấy nghìn năm vẫn còn cảm xúc đòi đoạn thì Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc là hai khúc ngâm tiêu biểu trong văn chương Việt Nam; cũng như Trường Hận Ca, Tam Lại Tam Biệt và Tần Phụ Ngâm được xem là “tam bi hùng ký” trong văn chương Trung Quốc thời Hậu Đường. Người Việt yêu thi ca thường ưa chuộng dư âm cùng ý vị lãng mạn và bi tráng giàu kịch tính hơn là vẻ bi phẫn và hùng tráng của hiện thực máu xương trong thi ca đượm mùi chinh chiến. Tâm lý nghệ sĩ nầy giúp lý giải một phần câu hỏi còn nằm trong góc khuất văn học là tại sao cho đến nay, hơn cả nghìn năm sau, tác phẩm Tần Phụ Ngâm vẫn chưa có người dịch ra tiếng Việt.
20/03/2022(Xem: 3959)
Với tập sách nhỏ nầy – tác giả không hề nghĩ đó là công trình nghiên cứu; mà chỉ xin được gọi là nén tâm hương, là tấc lòng cảm cựu dâng lên anh linh của người thiên cổ - biểu tỏ sự ngưỡng mộ văn tài và xin được chia sẻ nỗi đau đời, đau người của tiền nhân và hậu học. Sỡ dĩ không gọi là công trình nghiên cứu về Nguyễn Du vì tôi không làm theo hệ thống chương mục của tổng thể tác phẩm, mà chỉ viết theo ngẫu cảm của người đọc đối với mỗi nhân vật trong tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh”, lại nữa; tôi cũng là một cá thể quanh năm đau yếu – khi viết đề tài này là tôi đang nằm tại chỗ, vì xẹp cột sống lưng và bao chứng bệnh khác – phải chăng là đồng bệnh tương lân???
20/03/2022(Xem: 6204)
Những tưởng Ninh Giang Thu Cúc sẽ gác bút sau tập nhận định “Đọc Kiều Thương Khách Viễn Phương” nhưng nào có được - bởi nghiệp dĩ đeo mang nên mới có Kiều Kinh gởi đến quý vị. Với tuổi tác và bệnh trạng – tác giả muốn nghỉ viết để duy dưỡng tinh thần, trì chú niệm kinh và chung sống an yên cùng căn bệnh nghiệt ngã là xẹp cột sống lưng... Thế nhưng; với tiêu chí – còn thở là còn làm việc, tác giả không cam chịu là người vô tích sự vì thế NGTC vẫn viết (dù trong tư thế khó khăn) mong đóng góp chút công sức nhỏ nhoi cho nền Văn học nước nhà.
24/02/2022(Xem: 8761)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
13/02/2022(Xem: 3493)
Gần đây khi nhận được những tập kỷ yếu về các chuyến hành hương (từ các địa điểm tâm linh) gửi tặng từ TT Thích Nguyên Tạng, một lần nữa tôi mới chợt nhận ra tại sao một người tu hay bất cứ một người phàm phu nào cũng cần phải cầu nguyện cho mình có đủ Tam Phước ( Phước vật - Phước đức và Phước Trí ). Trộm nghĩ khi có đủ tam phước rồi thì làm việc gì cũng thành tựu vì đã sử dụng đúng thái độ và cách cư xử của ta trong cuộc sống . Và hạnh phúc là mục đích chính của con người, tiêu biểu cho sự phát triển đầy đủ các đức tính đạo đức của con người ...Nhất là trong Triết lý Phật giáo, hạnh phúc là chủ đề rất quan trọng nghĩa là muốn có hạnh phúc thì phải có bình an ( vật chất lẫn tinh thần ) và nhất định là hạnh phúc này phải phát xuất từ giá trị cuộc sống với sự hoàn thiện nhân cách và luôn giữ 3 nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh.
13/02/2022(Xem: 6229)
Hiện nay chúng ta đang có 2 cách tính thời gian theo : Âm Lịch và Dương Lịch. Phương Tây và nhiều nước trên thế giới sử dụng Dương Lịch, lịch này tính theo chu kỳ tự quay xung quanh trục mình của Trái Đất và Trái Đất quay xung quanh mặt trời. Trong khi đó cách tính Âm Lịch sử dụng Can Chi, bao gồm thập Can và thập nhị Chi. Trong đó, 10 Can gồm: Canh, Tân, Nhâm, Quý, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ được tạo thành từ Ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. 12 Chi được lựa chọn từ các con vật gần gũi với con người hoặc thuần dưỡng sớm nhất. Có một sự khác nhau trong 12 Chi giữa Âm Lịch Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam,.... đó là Chi thứ 4 là con Mèo hay con Thỏ. Ở Việt Nam, 12 con giáp gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, tương ứng với 12 con vật : Chuột, Trâu, Hổ, Mèo, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó, Lợn. Khi ghép lại sẽ tạo thành 60 năm (bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12) từ các tổ hợp Can - Chi khác nhau, gọi chung là Lục Thập Hoa Giáp.
31/01/2022(Xem: 5873)
Truyện này viết về một người anh, và nhiều phần là hư cấu. Nghĩa là, chỉ một phần có thực. Nhưng tôi không thể nào nói rõ là phần nào thực, phần nào hư. Nói rõ có khi lại hỏng. Đã viết truyện thì, chẳng tác giả nào nói rõ đâu. Ngay như nhan đề “Bên Trời Đại Lý” cũng thấy là bên kia sự thật rồi, vì Việt Nam mình làm gì có thị trấn Đại Lý, nơi sẽ là bối cảnh của truyện ngắn này. Nhưng, nếu nói thiệt ra là Chợ Lớn, thì lại trần gian quá, chẳng thơ mộng tí nào.
05/01/2022(Xem: 7829)
Khi khoa học ngày càng phát triển, con người càng rời xa tâm linh và phủ nhận tất cả những gì không dựa trên nền tảng khoa học. Tuy nhiên, thế giới tâm linh dù được khẳng định bởi người hữu duyên hoặc phủ nhận bởi người chưa đủ duyên tồn tại song song với thế giới vật chất. Sự nối kết tâm linh là một đề tài sôi nổi trong dòng chính cũng như trong cộng đồng tôn giáo. Trên thực tế, hiện tượng siêu nhiên vẫn là những điều huyền bí mà không phải bất kỳ ai cũng có thể trải nghiệm hay giải mã. Vì vậy, người có khả năng nối kết với thế giới tâm linh và cảm nhận được hiện tượng tâm linh càng trở nên đặc biệt dưới các trường hợp sau đây:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]