Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

31. Vài cảm nghĩ về mẹ nhân đọc tập thơ "Hoa Song Đường"

31/01/201206:22(Xem: 14194)
31. Vài cảm nghĩ về mẹ nhân đọc tập thơ "Hoa Song Đường"

VÀI CẢM NGHĨ VỀ MẸ NHÂN ĐỌC TẬP THƠ “HOA SONG ĐƯỜNG”

Huế ngày 22/6/2009

Hương Tâm

Mới hôm qua đây thôi, mẹ còn mạnh khỏe, tươi tốt, cười cười nói nói, đột nhiên sáng hôm nay người biếng ăn, nằm hoài không dậy. Thời tiết ư? Có khi một cơn trái nắng trở trời, một đêm mưa bão thình lình, có thể làm cho thân thể suy kiệt. Nào ai biết trước được. Có khi là một nỗi buồn, có khi là cơn giận, nóng lạnh bất thường.

Rồi những chứng bịnh bất thường của người già. Mẹ còn mạnh khỏe đó, sáng sớm mai chợt như già đi trăm tuổi. Có gì đâu, một đứa cháu lấy chồng Việt kiều sẽ đi xa, một một người bà con qua đời… tất cả nỗi buồn cùng cơn vui thái qúa đều đưa đến các chứng bệnh không thể nói trước ở người già. . Dân gian có câu:

Mẹ già như chuối ba hương

Như xôi nếp một như đường mía lau. 

Mẹ là dòng suối ngọt lành, là tất cả. Và ta chạnh lòng nghĩ đến mẹ. 

Không phải lúc nào ta cũng nhớ đến mẹ. Có bao giờ ta nghĩ đến một ngày kia mẹ sẽ già và sẽ bỏ ta mà đi; khi tuổi đời còn trẻ, còn năng lực cống hiến cho đời, hay thu góp của đời càng nhiều càng tốt? Thế mà lúc ta ốm đau tật bệnh, lúc ta nghèo khổ túng đói, người, như một phép lạ, luôn ở bên ta. Khi ta còn nhỏ, mỗi lần ta đau ốm, mẹ thức suốt đêm ẵm ta trên tay, ban ngày lo nấu nướng dọn dẹp, hoặc chạy lo cái ăn cho ta, trong khi ta ngủ li bì sau khi cơn sốt đã bị đẩy lùi. Có mẹ, ta có tất cả, mất mẹ, đời ta trở thành hư vô.

Đọc những vần thơ sau của Mặc Giang:

Mẹ là một con người, nhưng là một con người không ai thay thế

Mẹ là một con người, nhưng nhờ mẹ mới có em

Chín tháng mười ngày, lòng mẹ đang quặn thắt

Ngày em ra đời, mẹ như đứt ruột đứt gan

Thân mẹ ra sao, mẹ cũng chẳng màng

Mẹ quay nhìn em, thử em có bình yên không đã!

…Em trưởng thành bao nhiêu, mẹ tàn tạ úa già

Mắt yếu, lưng còng, mòn thịt, mòn da

Để cho em thành người, như người ta trong xã hội

Đức hi sinh của mẹ như trời cao diệu vợi

Tình thương yêu của mẹ như biển cả thâm sâu

Tôi xin nhắc em, đôi lời em nhé!

Mẹ đã gian truân, đau khổ nhiều rồi

Mẹ đã vì em, tóc bạc da mồi

Nếu em thương mẹ, thì đừng để một ngày mai, quá chậm!!!

(Nhắc những em tôi)

Còn gì giản dị và bao la hơn tình mẹ. Và tình con càng sâu lắng:

Dù có làm ông gì

Đối diện mẹ, con cũng mong hai tiếng thương yêu

Dù có làm bà gì

Đối diện mẹ, con cũng mong được nuông chiều 
Một lời thật là sâu sắc, nó nói lên quá đủ tình mẹ mênh mông như biển trời, tình cha cao như núi Thái. Tưởng như ta còn nhỏ dại lắm; ta không bao giờ lớn khôn lên cả mỗi khi ta về bên mẹ.

Sung sướng vô cùng sau khi vượt qua một chặng đường dài về tới nhà, tắm rửa sạch sẽ, nằm trên chiếc giường chiếu gối thơm tho – có khi chỉ là mùi hoa lý, hoa nhài mà em gái hay mẹ ta cố ý để dành lại lấy hương cho căn phòng hẹp, được nằm trong phòng đọc sách, mà không làm gì cả, sau đó được mẹ hay chị gái – mà thường là mẹ, ân cần đem tới li nước mát để uống, chỉ sợ ta đói, mệt. Mẹ luôn là vậy, một nàng tiên nhân ái, một thiên sứ. Vì ta, trước hết mùa đông người lo đan áo cho bầy con, hết đứa lớn đến đứa nhỏ, sợ con lạnh. Sau đó đan áo cho chồng. Thời đại ngày nay, có em gái nào nghĩ đến chuyện đan áo cho chồng con nữa không, hay là đổ tội cho thời đại, cho công ăn việc làm, rồi chạy ra tiệm mua áo, mua xơ, thậm chí tã lót cho đứa con đầu lòng, và các đứa thứ hai, thứ ba?

Tình mẹ bao la ngọt ngào biết mấy! Có khi cầm chiếc áo trên tay mẹ đan hồi mẹ đã 85 tuổi! Mẹ đan áo cho con, đan que nhỏ mà len sợi lớn cho dày, mặc cho ấm. Mẹ nói với tôi rằng, ngày xưa ở với mẹ con có đi chợ đâu! Chỉ ăn rồi đọc sách và đi chơi với chúng bạn. Thậm chí việc tôi học mẹ cũng cho là không có, mẹ bảo con chỉ thích chưng diện đi chơi. Trải bao thăng trầm cuộc thế; bàng hoàng nhớ lại, ngẫm lại thì ra mẹ già thật, nhưng trái tim mẹ không bao giờ già. Trái tim không hề biết đến cái giá rét, cái nắng hạn, cái khô cằn. Trái tim người mẹ chất đầy tình yêu con mà tình yêu thì mãnh liệt hơn sự chết. Tình mẹ thì như nước biển đông không bao giờ vơi. Đó là một thứ tình cảm đặc biệt thiêng liêng vô giới hạn.

Người viết những câu thơ thật cảm động:

Ngày em ra đời mẹ như đứt ruột đứt gan

Thân mẹ ra sao, mẹ cũng chẳng màng,

Mẹ quay nhìn em, thử em có bình yên không đã!

Thế mà ngược lại, đứa con có khi, theo tiếng gọi của non sông, một đi không trở lại… 

Thơ người khiến tôi nhớ lại bao kỉ niệm vui buồn. Có con mới hiểu lòng mẹ. Khi mang thai đứa con đầu, mẹ khuyên tôi mỗi buổi sáng dậy sớm trước hết mở toang hai cánh cửa, hít thật sâu vào lồng ngực sau đó mới cầm chổi quét nhà. Có thai không nói lời nung, không hờn giận, không nuôi nấng những tình cảm xấu ác như ganh ghét, trả thù. Có thai đứa con đầu những năm 78, 80, thành phố tôi ở trước đây sáng choang ánh điện bây giờ nhà đèn trả cho Pháp? Đêm hôm mối nhà một ánh đèn dầu leo lắt. Cúp điện thường không báo trước. Không hiểu sức mạnh bên trong nào thúc đấy khiến mối ngày tôi vượt qua được hàng chục km đường trường bằng xe đạp, ngán nhất là công việc đi dạy hay điều khiển học trò lớp 9 dạy bổ túc ban đêm. Phải vượt qua một quãng đường chừng 5km, qua một con đò, rồi còn phải đạp xe vô đường làng gập ghềnh lỗ trâu đi. Cũng chưa ngán bằng khi đạp xe trở về, đường trong làng tối thui, bởi nhà quê thì đi ngủ sớm và thường thức dậy khi thành phố vẫn còn say ngủ. Đường làng tối như hũ nút, nó chỉ được chiếu sáng nhờ ánh đèn pin của học viên về cùng lối, họa hoằn lắm mới có ánh đèn dầu từ trong một căn nhà nào đó ngủ muộn. Ra đến đường cái mới có ánh điện, qua chừng 1km50 mới tới bến đò, bà lái đò chỉ chống sào đợi một mình tôi. Rồi phải qua một nghĩa địa vắng vẻ, một bãi rác hôi thối. Cả nghĩa địa và bãi rác kéo dài khoảng gần 2 km nữa mới đến cầu Cháy. Gọi là cầu Cháy (tiếng dân gian) vì là chiến tranh bom đạn khiến thành cầu bị cháy xém. May mà chiếc cầu này do công binh Mỹ làm trước 75 nên mới không sập và còn có mấy trụ đèn trơ gan cùng tuế nguyệt, tuy chỉ đỏ le lói hai trụ nhưng có còn hơn không. Đêm nào cúp điện thôi khỏi phải bàn. Sức mạnh nào thúc đẩy tôi vượt qua các chướng ngại ấy, sự tối tăm, giá rét mùa đông, nắng khô mùa hè, cho đến ngày sinh nở nếu không vì tình mẫu tử thiêng liêng? Không dám ăn bậy, không dám đạp xe nhanh, chỉ sợ ảnh hưởng đến con. Thế mà vui biết mấy, tình thương con nảy nở khiến tiêu tan bao nỗi nhọc mệt mỗi khi ta về đến nhà.

Thật lạ, người đã nói giùm ta những điều ta trăn trở, một đôi khi thôi:

Mẹ là mây sắc hương ngàn

Thương em như nước trường giang xô bờ

Mẹ là hoa, mẹ là hương

Mẹ là nguồn cội tình thương nhiệm mầu

(Những lời mẹ thương)

Ta còn có mẹ trong đời, là một nguồn hạnh phúc vô biên. Thời đại bây giờ con người sống lí trí khô khan nhiều hơn tình cảm. Công việc, những mối lợi trong thương trường, tranh đấu giữ lánh thổ, khiến nhiều khi ta quên mất vai trò người mẹ. (Mấy ai còn nhớ những bà mẹ có năm đứa con tử trận, nếu bà không có con làm chức vụ nọ kia)? Sự lãng quên vô tình kia, may thay, đã có người nhắc em thơ, những đứa em còn nhỏ dại tưởng chừng vô tư qúa lắm. Sự thật, cả khi ta khôn lớn, sáu bảy chục tuổi mẹ vẫn coi ta còn nhỏ:

Trong cuộc đời, nếu ai có hỏi

Thương yêu ai cao nhất trong đời

Em đáp liền, không do dự, em ơi

Tình thương cao cả nhất, xin dành cho cha mẹ.

(Bài ca hay nhất)

Không những có mẹ mà còn có tình cha. Tình cha thì sâu kín và mãnh liệt. Không những là người anh hùng ngoài trận mạc, người cha còn thương con một tình thương vô bờ bến, tình cha mãnh liệt mà sâu kín bởi đàn ông lí trí hơn đàn bà.

Hơn ai hết, người hiểu tình cha. Một tình cảm đặc biệt khiến có khi người cha có thể hi sinh, có thể bỏ tất cả, vì con.

Cha em đó, mồ hôi nước mắt

Cha em đó, chan nắng đổ mưa

Cha em đó, chân tay sần sũi

Đánh đổi một đời, gian khổ vì em

Nếu em có gì, cha em trầm ngâm không nói

Nếu em có gì, cha em se thắt tâm can

Em có biết không, cha em đứt ruột đứt gan

Nặng trĩu khối đầu

...

Dù không buông những tiếng yếu mềm

Nhưng lòng cha chan nước mắt

Đó chính là như nhà có nóc 

Che cho em, không nắng không mưa

Che cho em, sóng cả gió lùa

Khôn lớn trưởng thành, để đi vào trường đời

...

Dùng chữ nghĩa yếu mềm, thì làm sao diễn tả.

(Công cha, một tiếng, một đời)

Hình như người biết rằng nói bao nhiêu cũng không đủ, bởi ngôn từ thì giới hạn mà tình thương tự nó vốn vô biên. Người nhắc những em thơ và cả người lớn: 

Cho nên còn có mẹ trong đời

Em hãy sung sướng lên đi!

Chị hãy sung sướng lên đi!

Và, anh hãy sung sướng lên đi!

(Còn mẹ là còn tất cả)

Rồi cái điều không ai muốn đã xảy ra:

Nhiều khi đem nhớ ra hong

Ấm đâu không thấy mà đông lạnh lùng

Thầy Nhất Hạnh có lần viết:

“Tôi biết tôi mất mẹ

Là mất cả bầu trơi”

Bởi vì, có ai thương ta bằng mẹ ta. Mẹ ta sung sướng khi ta cười, lo lắng buồn bã khi ta đau ốm. Rồi khi buộc lòng phải trừng phạt ta mẹ cũng khóc. Chín tháng cưu mang, ba năm chăm bẵm bú mớm, tập nói, tập đi, đều là công mẹ.

Chỉ cần mẹ, đời em biết yêu thương

Tặng phẩm mẹ trên trần gian lớn nhất. 

Những điều tưởng bình thường hóa ra không phải thế. Những điều tưởng cao xa hóa ra rất giản dị. Ở đó ta có mẹ, có mẹ là ta có tất cả, mất mẹ là ta mất tất cả, mất” cả một bầu trời”.

Hỡi trời, trời cao bao lớn

Hỡi đất, đất rộng tới đâu

Đem chứa, không đầy mắt mẹ

Đem so, tim mẹ chưa tràn

(Đừng quên có mẹ trong đời)

Phương xa mất mẹ, còn nỗi đau nào lớn hơn. Người nói lên nỗi niềm của mình với bao nhiêu tiếc thương: 

Mẹ về một cõi tịch liêu

Còn đâu hai tiếng: mẹ yêu trong đời

(Mẹ đã đi rồi)

Lạnh lùng nghe tiếng đêm đông

Xa xôi nghe tiếng mênh mông vô bờ

Lung linh nén ngọc hương thờ

Nhưng hình bóng mẹ mịt mờ ngàn xa

Giật mình gối mộng đêm qua

Sờ trên gối mộng gối đà đẫm sương

(Phương xa mất mẹ)

Nào ai muốn thế? Người đã trải qua cái cảnh thức suốt một đêm trường, mong gặp mẹ lần nữa, tưởng như trong giấc mơ – cái chết của từ mẫu là điều người không hề ngờ đến, để lại trong đời bao nỗi tiếc thương ân hận. Phải chăng vì thế, người khuyên ta, nhắc nhủ ta, ngày nào mẹ còn khỏe, ta hãy sống với mẹ thật trọn vẹn, thật đủ đầy từng khoảnh khoắc hôm nay. Thời gian thì trôi nhanh như nước chảy mà đời người có hạn. Hiện tại là giây phút quý nhất. Người khuyên ta, hãy một lần ngồi bên mẹ, cầm tay nhìn kĩ vào khuôn măt mẹ để nói rằng:

Mẹ ơi! Mẹ có biết rằng, con thương mẹ lắm không?

Cõi trần gian, diễm phúc cho em, còn đóa hoa hồng!

Và, bất hạnh cho những ai, khi cài bông hoa trắng!!

(Nhắc những em tôi)

Bởi đã nếm trải cảnh chia li đau đớn với mẫu từ:

Con chim nhỏ, gọi đàn vang mé núi

Tiếng mẹ ơi, ngập ngừng bên mé núi

...

Vô thường, mẹ đã ra đi

(Từ tạ mẹ hiền)

Nhiều khi đem nhớ ra hong

Ấm đâu không thấy mà đông lạnh lùng

Cho rằng suy nghĩ mông lung

Xưa nay biết mấy anh hùng lệ rơi!

(Anh hùng còn rơi lệ)

Câu thơ đọc lên buồn ứa lệ. Khép lại tập thơ, ta cám ơn người thơ Mặc Giang đã viết cho đời những vần thơ đẹp nhất, hay nhất về mẹ, về cha; đó là Hoa Song Đường như người đã đặt tên. Và ta cũng cám ơn đời, cám ơn trời phật đã cho ta một người mẹ hiền để mỗi lần trở về ta có thể vòi vĩnh như ngày còn bé dại, để được chiều chuộng được yêu thương và để thương.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2013(Xem: 4347)
cha Ðã đến lúc cha viết những lời sám hối chân thành gởi đến con. chắc con rất ngạc nhiên. Con dang xót xa vì cha cô đơn, ân hận vì không được gần cha đề săn sóc tuổi già, cũng có thể tưởng tượng cha đang nhẹ nhàng trách con... Vậy mà làm sao nghe có sự ngược đời. Con hãy nghe cha nói.
11/02/2013(Xem: 4366)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn : - Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hỗn. Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm". Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
08/02/2013(Xem: 12906)
Nhân một hôm đến tại tư thất thăm cụ Ngô Trọng Anh, Giác Lượng đọc được bài thơ của Cụ Hoàng Văn Minh, tức nhà thơ Điền Viên, đăng trên Đặc San của Hội Người Việt Cao Niên, vùng Hoa Thịnh Đốn Xuân Kỷ Sửu (2009). Với tựa đề: NƯỚC NON
04/02/2013(Xem: 13357)
Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.
27/01/2013(Xem: 3109)
Cảm nhận nguồn sông trăng, Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả. “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.
21/01/2013(Xem: 10932)
Một lòng yêu nước với yêu quê Sang lánh trời Tây vẫn nhớ về Non nước đớn đau lòng tu sĩ Đêm về gợi nhớ bóng hương quê Nghìn năm văn hiến giờ đâu thấy Nghĩa lý luân thường mất đã lâu Khổ đau oằn quại triền miên kiếp
20/01/2013(Xem: 2972)
Cuộc đời bầm dập nổi trôi của một em học trò cũ đã thôi thúc tôi viết nên truyện này. Người ta thường bảo „sông có khúc, người có lúc“ nhưng phải nhìn nhận cả cuộc đời của em đã phản ảnh lại nhận xét trên. Bao đau thương đã dồn dập lên đôi vai yếu ớt của em, nhiều lúc tưởng chừng như không còn gượng đứng dậy được nữa, nhưng em vẫn phải sống, vẫn phải đương đầu với mọi khổ đau tràn ngập vây quanh.
15/01/2013(Xem: 6211)
Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир) là nhan đề một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865 - 1869.
30/12/2012(Xem: 4189)
Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe. Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tuỳ cơ giúp đỡ cô em nhút nhát. Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:
17/12/2012(Xem: 4432)
Cách đây mấy năm, trên một chuyến xe đò muộn về thăm quê. Khi xe đi ngang qua cầu Ngân Sơn, thì lúc ấy đã 5 hay 6 giờ chiều. Dù đã nhiều lần đi qua đây, nhưng có lẽ buổi chiều cuối xuân năm ấy, là buổi chiều mà tôi đã nghĩ nhiều nhất về Võ Hồng. Tôi tưởng tượng rằng, hồi còn nhỏ chắc mỗi chiều ông vẫn thường ra đứng ở nơi này, để nhìn ráng đỏ nơi rặng núi phía Tây kia ? Rồi nhìn bóng chiều xuống chậm trên dòng sông này? Chắc phải vậy! Vì trong tác phẩm của Võ Hồng thì cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của đất trời, tôi cho là những cái đẹp mà Võ Hồng đã viết hay nhất. Nhưng trong cái đẹp đó, Võ Hồng luôn luôn đưa vào thiên nhiên một chút sầu, hay ngậm ngùi cho một cái gì đó đã hay đang sắp mất đi trên cuộc đời này. Tại ông bi quan chăng? Hay tại vì cái đẹp mong manh của những buổi chiều tà trên dòng sông tuổi thơ dạo nào cứ ám ảnh ông mãi.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]