Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

26. Đôi Lời Tâm Sự

31/01/201206:22(Xem: 14326)
26. Đôi Lời Tâm Sự

Đôi Lời Tâm Sự

Brisbane ngày 7 tháng 12 năm 2005

Giáo-sư Đào Hoàng-Nga

Bác-sĩ Hà Ngọc-Thuần 

Tập thơ trong tay quý-vị gồm bảy mươi bài thơ của Mặc-Giang, trong số hơn năm trăm bài thơ đã sáng-tác, được ấn-hành để gởi đến thi-hữu, văn-hữu và bạn đọc bốn phương. Tác-giả đã làm thơ từ năm 1982, hoặc có thể trước đó nữa. Những bài thơ trong tập này, như chúng ta sẽ thấy, phần lớn được hình-thành vào những năm 2003 và 2004. 

Người thơ có mặt tại Queensland từ hơn hai mươi năm nay, với nếp sống, phong-thái, con người của ông, có lẽ không xa lạ và đã trở thành một khuôn mặt thân-thương đối với người Việt sinh-sống không những tại thành-phố Brisbane, mà có thể trên toàn nước Úc-Đại-Lợi - Tân Tây-Lan và một số quốc-gia hải-ngoại.

Chừng mười bài thơ trong số hơn một trăm bài có nói đến Chùa, đến Phật. Điều đó, người đọc có thể chờ đợi và đón nhận, không chút ngạc-nhiên. Từ sự cao-siêu huyền-bí, từ chốn trời quê xa mờ, Thi-nhân đã vẽ lên hình-ảnh Thầy cũ, trường xưa, một vài dấu nét quen-thuộc nơi phố nhỏ, một khung-cảnh nên thơ trên đường làng, êm-đềm bên giòng sông đơn-sơ, đạm-bạc, xa-xưa, mà gắn-bó thật là thắm-thiết trong tâm-hồn người viễn-xứ. Bút hiệu Mặc-Giang cũng gợi đến hình-ảnh một dòng sông âm-thầm lặng-lẽ chảy trôi không ngừng-nghỉ. Dòng thơ Mặc-Giang là sự kết-hợp của một khối óc và một con tim, một tấm lòng hiền-hậu chăm lo cứu giúp người đời. 

Thắm-thiết nhất vẫn là Tình Mẹ. Đồng-hương tại Queensland đã chứng-kiến và chia-sẻ nỗi niềm đau-thương của người hiếu-tử khi thư nhà chợt đến hay từ đường viễn-liên báo tin Mẹ đã nhắm mắt lìa đời. Tang-lễ tất cả chỉ có “khói hương trầm nghi-ngút”, tiếc thương chỉ có “mắt con nhoà rướm lệ”, và báo hiếu chỉ có “con trầm-ngâm sống với Mẹ một đêm”. Bài thơ này có lẽ sẽ được nhiều người ghi nhớ, nhất là những người con đã mất Mẹ, không thể không ngậm- ngùi xúc-động.

Là người đã chọn cuộc sống xa gia-đình, xa bà con thân-thích, nhìn về vạn-hữu chúng-sinh, nên những bài thơ còn lại tác-giả đã hướng về tha-nhân, những người thường gặp trong cuộc sống bình-thường hiện-tại. Tác-giả đặc-biệt gởi niềm thân-ái đến những người sống vất-vả, thiệt-thòi và thua kém trong xã-hội, như Người Mắt Cườm, Người Mù, Người Cùi, Người Điên, Em Bé Nghèo, Em Bé Mồ Côi. Tác-giả còn đặc-biệt chú-ý đến những nạn-nhân và những người sống-sót qua những thiên-tai hay những thảm-họa. Thế-nhân thường là ngoảnh mặt quay đi, không muốn nhìn những đau-thương, thảm-khốc, không muốn đương đầu với sự thật tàn-nhẫn và khắc-nghiệt. Cho đến bao giờ tình yêu thương tha-nhân mới thật sự đến với loài người, nẩy-nở trong lòng mỗi người để cuộc sống nơi cõi trầm-luân này vơi bớt đi ít nhiều những niềm đau nỗi khổ?

Sáng-tác của Mặc-Giang rất là phong-phú. Còn hơn bốn trăm bài thơ nữa hy-vọng cũng sẽ được ấn-hành. Một số bài đã được phổ-nhạc, trở nên truyền- cảm hơn với sự trợ-giúp của hòa-âm và tiết-điệu. Người đọc, thi-hữu và đồng-hương chúng ta còn đợi chờ nhiều với những gì sẽ được gởi đến qua “Thông-điệp của Mặc-Giang”, một con người “quê-mùa cạn-cợt”, “nhỏ-nhoi kham-khổ” (thật sự không hẳn như thế), nhưng cũng là một hồn thơ mênh-mang đậm-đà, một tấm lòng nhân-ái bao-la, chứa đựng một sức-sống mãnh-liệt, một tâm-hồn trong những tâm-hồn đích-thực Việt Nam.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 5266)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 4389)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 3439)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 4154)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 10988)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 10948)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 3198)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 5161)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 3502)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 3574)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]