Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

17. Bến đỗ bình yên

31/01/201206:22(Xem: 14049)
17. Bến đỗ bình yên

BẾN ĐỖ BÌNH YÊN

Hương Giang tháng 6-2009. Bạch Thu

Thời gian dẫu vô tình đến mấy

Con đò vẫn cập bến sông Thương. 

Không gian dẫu vô tận đến đâu

Hoàng hôn cứ đỗ đầu núi nhớ ... 

Hoàng Linh vẫn còn đứng đó. Tà áo lam hiền cùng chiếc nón trắng xứ Huế trông thật dễ thương. Con thuyền vẫn chưa cập bến. Ở đời, cái gì thuộc về trái tim thì còn mãi giữa lòng người. Thời gian bốn mùa đắp đổi nương nhau, thế mà cái thuộc về trái tim trong cô vẫn chưa tròn ước nguyện. Chờ lâu, cô dạo bước quanh quẩn tới lui trong khoảng không gian bến đợi con thuyền:

Lênh đênh làm khách phong trần mãi!

Trên sông, từng dòng nước gợn sóng vỗ nhẹ vào bờ. Mấy quả sung chín rụng rơi lã chã. Đứng trước bên sông chiều, nhìn cảnh sông nước mênh mông, một nỗi buồn len lén chợt dâng lên trong lòng Hoàng Linh:

"Từ giã quê hương ta đi tìm đất sống

Giã biệt xóm làng, nơi cắt rốn chôn rau

Đi đến thật xa núi thẳm rừng sâu

Đôi tay trắng vẽ khung trời gian khổ"

(Mặc Giang)

Cảnh ấy đã tác động vào tâm hồn Linh một chút gì đó gọi là thi sĩ: yêu thơ! Kiếp phù sinh hiện hữu, dòng thơ của Mặc Giang gợi về trong ký ức:

"Quãng đường qua sỏi đá cũng ghê gai

Bước phong sương mòn sức lực dặm dài " 

Hoàng Linh nghĩ về một quá khứ xa xôi, một tương lai mờ ảo huyễn tưởng. Cảnh sông nước mênh mông đang gợi cho Linh nhớ đến thơ hay tình thương đang dạt dào tuôn chảy sâu lắng của thi sĩ. Bao lời thơ Mặc Giang cũng từ đó hiện về:

"...Trăng lặn dòng sông đêm mấy canh.

Tầng không én liệng buồn bay cuối trời...'' 

...Đã bao lần rồi, mỗi khi lặng nhìn đời, con người, thế cuộc thì vần thơ của thi sĩ chợt hiển hiện sáng ngời trong tâm hồn Hoàng Linh. Vì lẽ đó, lắm lúc mọi nỗi buồn, lo lắng... trong cuộc sống lại tan biến vào hư vô, thay vào đó là niềm tin, sự an tịnh nội tâm khi tiếp xúc với vần thơ của người. Dù xa quê hương, xa gia đình, xa mẹ cha và bà con lối xóm, nhưng Hoàng Linh đâu thấy thiếu trong mỗi bước chân qua. Bởi lời thơ của Mặc Giang như người mẹ hiền, luôn dìu dắt, an ủi, động viên Hoàng Linh đi hết cuộc đời này. 

... Con đò chiều đưa Linh về lối cũ. Sông nước mênh mông, ánh nắng vàng còn le lói chưa chịu nhường chỗ cho hoàng hôn, Hoàng Linh nhìn ra xa, dòng sông nhuốm phủ một màu tím mộng của cánh hoa lục bình. Và không nằm im như những tảng bèo kia, vẫn có nhiều cánh bèo đang xuôi ngược tám hướng giữa dòng sông xứ Huế. Con thuyền vẫn ung dung lướt đi trong cõi mộng, ngao du giữa chốn phiêu bồng. Và em đã đi đâu?:

"Vào cửa tử sinh tôi đi tìm cõi sống

Của chính tôi rồi sẽ đi về đâu

Qua những thềm hoang sách vở phủ đầu

Tắc ngẽn đó không tìm ra lối thoát" 

...Cậu bé đen ngòm trong chiếc nón tơi tả đang bơi chiếc xuồng

khua mái chèo đi vớt những khúc gỗ trôi linh đinh trên sóng nghiệp. Linh nhìn cảnh ấy mà lòng xót thương cho kiếp nhân sinh:

Thôi rồi: "biển đục phù sinh loang lổ hoang tàn" thì ta: "gieo chi nữa những sắc màu hoen ố". Con thuyền chưa cập bến, Linh nhìn hai bên bờ sông, những cành lau trắng muốt đang vẫy gọi trong gió chiều, gửi tình thương yêu vào sự sống trong gam tím của sắc màu xứ Huế:

"Thà làm cỏ cây xanh ngát bên đường

Hơn hoa mỹ thêu thùa bên bờ lau gió bụi"

Cảm ơn đời, ta xin vào cõi nhân gian: 

"Trong bóng đen tội tình chi lầm lũi

Giữa khung trời, tỏa rộng ánh thiều quang

Sống thanh thiên như gió mát trăng ngàn

Cho đêm tối bừng hỏa châu tỏa sáng"

Bên kia bờ, tiếng gọi yêu thương theo lời thơ của Mặc Giang đang vẫy chào, bắt nhịp vào tâm hồn kiếp nhân sinh:

"Gom cát bụi bên bờ rêu giá lạnh

Góp hoang tàn bên bờ đá rêu xanh 

Để lắng nghe từng giọt lệ long lanh 

Rơi xuống biển trần gian nhiều gai góc". 

Mặc Giang ơi! con đường của thế gian thì nhỏ hẹp, con đường của thi sĩ thì rộng lớn thênh thang, ngang dọc tự do "mây nước tỳ khưu tùy ý ruỗi" Trên từng con đường quen thuộc, ven theo lối cỏ xanh và vào từng ngõ ngách của xóm làng, heo hút núi rừng, bước chân người đã đi qua với biển tâm, rải tình thương bằng những vần thơ viết về con người và thế cuộc. Vần thơ ấy đã làm hiển hiện trong ký ức Hoàng Linh một bóng hình, thi sĩ là bậc chân tu sáng ngời đạo hạnh và đức độ. Vần thơ ấy đã theo từng bước chân người đi bằng chất liệu "vô tâm", ''vô niệm", nên vào cửa "vô môn". Chính cửa vô môn đó mà bao người con Phật đã ra vào tự tại:

"Tôi chẳng có gì bán cái không

Đã không nên chẳng có đôi đồng

Không ai mua hết nhìn còn rộng

Đem chất hoài nhưng vẫn trống không"

Những vần thơ của thi sĩ cho thấy cái cốt cách nhân bản, oai nghi khác thường, tâm từ đỉnh đạc, gợi lên trong lòng người nhiều bài pháp vô ngôn. Lời thơ ấy đã bay vào cát bụi của kiếp người một cách thầm lặng rồi lại ung dung ra khỏi cuộc đời nhẹ tựa hồng mao, thật đúng là vần thơ diệu dụng. 
Và lúc này đây, trên dòng sông xứ Huế, thơ của người đang bắt nhịp êm đềm trôi chảy. Tình thương bao la, tâm từ rộng lớn đã gửi vào hồn thơ bay bỗng đến từng tâm hồn đang còn chơi vơi trong biển khổ, để từ đó, nhân rộng, bao trùm và chan chứa hết thảy. Vì vậy, bao nhiêu khách phong trần ngồi trên đây, ấy thế mà con thuyền vẫn nhẹ nhàng lướt trên sóng nước. Hoàng Linh cảm nhận từ thơ một luồng từ trường mới mẽ, xoa dịu mọi nỗi âu lo của kiếp người. Cảm ơn thi sĩ, người đã đem đến những lời thơ khai mở tâm con, đánh dẹp ý thức vọng động, hàng phục vọng tâm, hồi phục chơn tâm. Thơ Mặc Giang mênh mông như sông nước, mỗi giọt nước là một giọt sữa pháp được rót từ uyên nguyên giáo pháp. Cảm ơn người, ta hãy sống tốt hơn, giữa sanh tử khổ đau ác kiến chập chùng. Biết thương yêu nhau, quả Bồ Đề chia chung trái ngọt... 

Con thuyền vẫn lướt trên sông nước, dạo chơi qua cõi hồng trần. Dù cho nắng gió, sương sa, và cát bụi tơi bời, nhưng vượt qua là cập bến. Hoàng Linh nhẹ bước lên bờ. Cô đã vẫy chào tất cả.

Ôi!"Trong cuộc đời ai không uống nước

Giữa trường đời ai chẳng qua sông

Qua sông nhớ giữ lấy lòng

Vần thơ nơi ấy gieo lòng thế nhân" 

Mặc Giang ơi! Con thuyền kia chở đầy ăm ắp những vần thơ của thi sĩ đang quay về bến đợi, nhẹ nhàng đưa lữ khách phong trần trở lại "Bến Đỗ Yêu Thương"...

Và nơi đó, những chồi non được vun bón giờ đây đã xanh lá. Dầu chưa trở ngọn đầu mùa, nhưng có thể đứng vững để tiếp tục xanh tươi, đã góp phần tạo nên bóng râm cho đất:

" Trời chiều kéo hoàng hôn

Chim bay về tổ ấm

Cho gừng cay muối mặn

Hoa trái kết đơm bông"

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 10810)
Hiền Như Bụt là tác phẩm biên khảo về Phật Giáo, bút ký pha lẫn văn chương nhưng không phải do một tu sĩ hay một nhà nghiên cứu Phật học sáng tác mà do một trí thức khoa bảng yêu mến và quý trọng Đạo Phật viết ra. Nó là sản phẩm của 20 năm, từ 1992-2012. Hạ Long Bụt Sĩ tên thật là Lưu Văn Vịnh. Ông là một dược sĩ & Cao Học Dược, Cao Học Triết Học Tây Phương -nguyên giảng sư về các bộ môn Triết Học, Tâm Lý Học tại Đại Học Văn Khoa, Vạn Hạnh và Minh Đức. Ông đã xuất bản khoảng 11 tập thơ trong đó có dịch thơ Ả Rập và Thơ Thiền cùng một số sách nghiên cứu lịch sử và triết học. Hiền Như Bụt dày 444 trang xuất bản năm 2020, bao gồm một chương Tổng Quát và sáu chương với những chủ đề: Phật Pháp Trị Liệu Pháp, Đạo Bụt và Khoa Học Vật Lý, Bóng Phật Trong Văn Học, Tư Tưởng Tam Giáo, Đạo Bụt Canh Tân và Chuỗi Ngọc Kinh Phật.
06/11/2021(Xem: 12860)
Kinh Hoa Nghiêm là tên gọi tắt của bộ ‘Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh’ do Ngài Long Thọ Bồ tát viết ra vào thế kỷ thứ 2, tức khoảng 600 năm sau khi Đức Thích Ca Mâu Ni nhập diệt. Hoa Nghiêm (Avatamsaka) có nghĩa là đóa hoa tuyệt đẹp, thanh khiết. Phần Hán tự đã được dịch ra từ thế kỷ thứ 5, dưới ba hệ thống Bát Nhã (40 quyển), Giác Hiền (60 quyển) và Nan Đà (80 quyển) . Nhập-Pháp-Giới (Gandavyuha) là phẩm thứ 39 trong số 40 phẩm, cũng là phẩm dài nhất, tiêu biểu cho giáo lý căn bản của kinh Hoa Nghiêm nói riêng và Phật giáo Đại thừa nói chung, diễn tả con đường cầu đạo của ngài Thiện Tài Đồng Tử qua 52 vị Thiện Tri Thức dưới nhiều hình tướng, khởi đầu là ngài Văn Thù Sư Lợi, chư Thiên, Dạ thần, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Đức Phật Di Lặc..., và cuối cùng là Ngài Phổ Hiền.
06/11/2021(Xem: 6483)
Chép lời kinh mượn khuôn trăng làm giấy, Cõi diêm phù đất vẽ dấu chân xưa Đức ân Người sóng vỗ pháp âm đưa Quy thân mạng mười phương con đảnh lễ.
26/10/2021(Xem: 4536)
Nhìn chung, đại dịch đang dịu bớt tại Hoa Kỳ và quê nhà. Chưa bao giờ pháp ấn vô thường hiển lộ mãnh liệt như thời gian qua. Chưa bao giờ Khổ Đế hiển hiện minh bạch như thế, ngay trước mắt và ngay bên tai của mọi người đời thường. Có những người buổi sáng mới gặp, tới buổi chiều được tin họ đã nhập viện và không bao giờ có cơ hội gặp lại nữa. Cảm xúc đó đã được nhân loại trải nghiệm trên khắp thế giới, không riêng tại quốc độ nào. Bài viết này xin phép để nói một kinh nghiệm riêng (và có lẽ cũng là kinh nghiệm của rất nhiều người): đọc Kinh Phật trong mùa dịch, với cảm xúc rằng có thể đêm nay sẽ lìa đời. Do vậy, bài viết này cũng để Tạ Ơn Kinh Phật. Nơi đây chỉ là vài ý riêng, người viết hoàn toàn không có thẩm quyền gì về Phật học.
25/10/2021(Xem: 2495)
Mây qua trời. Có khi trắng, có khi đen. Có khi tụ, có khi tán. Ngưng tụ mà thực ra là chuyển động liên tục; tán thất mà thực không mất đi đâu. Vận hành tự tại, biến hóa vô số hình thù, rồi tan biến, rồi kết tụ trong một hình thể khác, hiện hữu nơi một không gian khác. Đến-đi cùng khắp, đông tây, nam bắc, phương trên hay phương dưới, không nơi nào mà không có mặt. Từ vô cùng quá khứ đến hiện tại và vô tận tương lai, trông như giống mà thực không giống, trông như cũ mà thực không cũ. Luôn mới mẻ tinh khôi trong từng giây phút. Đêm lẫn ngày, vẫn thường sinh-diệt, chuyển biến không ngừng. Tùy duyên ứng hiện, nơi đâu rồi cũng thuận hợp, chan hòa.
04/10/2021(Xem: 3713)
Trong những gì tôi được đọc và được nghe kể, hình như nhà thơ Bùi Giáng không còn tham sân si, hay nếu còn, thì rất là ít. Không rõ có ai chứng kiến lúc nào Bùi Giáng khởi tâm tham sân si hay không. Rất nhiều người đã thân cận, đã chứng kiến đời thường của nhà thơ họ Bùi và đều nhận thấy nhà thơ như là người của cõi khác, người bay trên mây, người lạc tới thế gian này, như dường không còn chút nào tham sân si; hay chỉ còn, nếu có, thì rất ít.
30/09/2021(Xem: 2624)
Bên cửa sổ, tia nắng chiều thu len vào. Gió mơn man rung nhẹ lá cây vườn ngoài. Lá vàng lá xanh cùng phơi mình quanh cội cây già. Mùi cỏ thơm dìu dịu gây nỗi nhớ bâng quơ. Tiếng vĩ cầm du dương đâu đó dìu dặt đưa hồn về cảnh cũ quê xưa.
26/09/2021(Xem: 6328)
Mùa Hạ nóng bức đã đi qua, mùa Thu chợt đến mang theo những cơn mưa đầu mùa, dấu chân ấy đang lang thang khắp cả dãi nắng niềm Trung, ra tận khắp hai đầu Nam - Bắc. Những giọt mưa đông đang tràn về khi dịch tể hoành hành khắp đất trời và trên Thế giới, trong đó có Việt Nam, khiến cho bao nhiêu triệu người bị thiệt mạng, dẫu có thuốc ngăn ngừa tiêm chủng trên Thế giới, giờ tất cả sống chung với căn bệnh Virus Corona, vì một Đại cuộc sinh tồn bảo vệ nhân sinh. Từ một Quốc gia có tiềm lực kinh tế giàu mạnh, khởi tâm tình thương chia sẻ viện trợ cho Quốc gia mới phát triển, giúp cho hàng tỉ người được tiêm chủng phòng ngừa, giờ tất cả nhân loại đang sống chung với Virus Corona, ai ai cũng nên tuân thủ việc bịt khẩu trang vì chúng ta hãy hiểu rằng: “Bịt khẩu trang, sẽ dễ chịu hơn nhiều, khi mang theo máy thở”.
19/09/2021(Xem: 8671)
Vũ Khắc Khoan sinh ngày 27/02/1917 tại Hà Nội. Mất ngày 12/9/1986, tại Minnesota, Hoa Kỳ. Học sinh trường Bưởi; Lên đại học, theo ngành y khoa hai năm, trước khi vào trường Cao Đẳng Canh Nông. Tốt nghiệp, làm kỹ sư canh nông được một năm rồi chuyển hẳn sang dạy lịch sử tại hai trường Nguyễn Trãi và Chu Văn An, Hà Nội và hoạt động kịch nghệ, viết văn, thành lập nhóm Quan Điểm với Nghiêm Xuân Hồng. Từ 1948 Vũ Khắc Khoan bắt đầu in bài trên báo Phổ Thông: hai vở kịch Thằng Cuội ngồi gốc cây đa (1948) và Giao thừa (1949) và bài tùy bút Mơ Hương Cảng (1953).
03/09/2021(Xem: 4918)
Thanh Lương là bút hiệu của Thích Thiện Sáng, một hành giả Thiền tông. Thế danh Trương Thượng Trí, sinh năm 1956, lớn lên trên cù lao Ông Chưởng, bên dòng sông Hậu giữa trời thơ đất mộng An Giang. Bản chất thông minh, mẫn tuệ, có trực giác bén nhạy, ngay từ thời còn bé nhỏ đã có những biểu hiện khác thường như trầm tư, ưa đọc sách đạo lý suốt ngày, thích ăn chay trường, thương súc vật và học hành ở trường lớp thì tinh tấn, luôn luôn dẫn đầu, xuất sắc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]