Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nửa Hồn Xuân

09/01/201213:23(Xem: 5670)
Nửa Hồn Xuân
canhdep_1a
NỬA HỒN XUÂN

(Truyện ngắn)
Thích nữ Tịnh Quang

“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ
Đào hoa y cựu tiếu đông phong.”
(Thôi Hộ)


Hoa-dao-8Thoáng chốc mà đã bamươi sáu năm, như ba sáu ngày nhẹ nhàng trôi trên dòng thời gian vô hình vunvút. Cũng một buổi chiều xuân với bầu trời trong vắt, ánh mặt trời rãi màu vànglốm đốm trong vườn đào đầy thơ mộng này, và cũng dưới cội đào già này, Đông và Xuânđã gặp nhau…Trái tim chàng từ đây đã trỗi nhịp yêu thương, thổn thức, mong chờ,và hồi hộp…tâm hồn của chàng đã là nửa hồn của nàng Xuân ngày ấy. Và giờ đây…“thờigian thiệt phũ phàng…!” chàng lẩm bẩm như kẻ vừa thức giấc sau một cơn mộng đẹp.Chàng ôm đầu tựa vào gốc hoa đào và nở một nụ cười nhạt nhẽo man dại, nhìn chântrời xanh xa xa, ký ức của chàng lui dần về quá khứ…

Đông nhớ rằng ngày ấy họcòn trẻ lắm, chàng và nàng chỉ mới hai mươi tư, tuổi của niềm đam mê và tràn đầyhứa hẹn…Chiều mồng hai tết Đông đi du xuân và gặp Xuân tại vườn đào kế bên nhànàng…Ánh nắng chiều biên biếc đã tô đẹp thêm nhan sắc của tuổi mộng mơ…họ nhìnnhau, lưu luyến nhau, và rồi ngàn lời thề non hẹn biển để xây đắp tổ uyên ươngkhi chàng đã hoàn tất công danh sự nghiệp của mình.

Nhưng nghịch cảnh đã đẩyđưa, họ tạm gác lại lời thề ấy. Đông và Xuân mỗi người một ngả, chàng ra đi cònnàng phải ở lại quê nhà.

Đông nhớ mồn một hômnao Xuân tiễn chàng lên máy bay, họ quàng vai nhau khóc sướt mướt, chàng biết rằngXuân yêu chàng lắm, nàng rất muốn khăn gói theo chàng nhưng ngặt một nỗi chanàng mất sớm, mẹ thì tật bệnh, nàng còn phải gánh buôn để nuôi mẹ và hai đứa emnhỏ dại nên không thể theo chàng; còn chàng chỉ có hai cha con và phải vâng mệnhcha để lên chuyến bay cuối cùng đến Mỹ vào tháng tư năm một chín bảy lăm...

Ba năm đầu định cư tạiMỹ chàng sống như cái xác không hồn, đêm mộng ngày mơ về quá khứ. Cha chàng bảo:“Con Xuân đã hớp hồn mày rồi!” Đúng vậy, Đông làm gì cũng thất bại không đâu rađâu, bởi hồn chàng chỉ còn một nửa, và một nửa là ở bên kia đại dương xa tít mùkhơi.

Đông rất mừng khi đi rađường gặp người Việt Nam; lúc chàng đang lái xe mà gặp một người châu Á đi bộbên lề đường là chàng quay xe lại, tấp vào lề và hỏi: “Are you Vietnamese?” Nếulà người Việt Nam chàng hỏi thăm đủ thứ chuyện, đặc biệt là chàng muốn biết khinào Việt Nam mở cửa cho Việt kiều về thăm quê cũ.

Mùa xuân năm thứ nhất…thứ hai… thứ ba…trôi đi, rồi đến xuân thứ tư…xuân thứ năm… từng đàn én lượn xônxao khi chiều đến, nhưng trong lòng chàng vẫn trĩu nặng một nỗi buồn u uẩn khibên kia bờ vẫn bặt vô âm tín, chàng không còn hy vọng trở về Việt Nam, chàngkhông còn hy vọng xây đắp lời thề; chàng nghĩ rằng cha mình cho rằng mình‘hoang tưởng’ là đúng… Thế rồi Đông tự vực dậy cuộc đời mình, lo làm ăn và lậpgia thất để không làm buồn khổ cha của chàng nữa.Tuy nhiên trong tâm chàng luônao ước cho Xuân vạn sự an lành và hạnh phúc, và lời thề kia chàng xin hẹn lạikiếp lai sinh tới.

Chuyện quá khứ tưởng chừngnguôi ngoai như thuyền đã ra khơi, thời gian đã sang trang mới; nhưng đầu mùaxuân năm thứ hai mươi mốt Đông nhận được lá thư của Xuân từ một người bạn họccũ của Đông vừa sang nhập cư. Đọc thư Xuân, biết nàng vẫn còn mạnh khỏe, nàngkhông có gì thay đổi, vẫn còn chiết bóng lẻ loi, biết nửa hồn của Xuân vẫn cònthuộc về chàng…Đông đau đớn lắm…

Như vết thương đã lành theothời gian nay lại tái phát, chàng đã tiếp tục tơ tưởng về quá khứ…về một chiềuxuân bên cội hồng đào, về những tháng ngày mặn nồng hò hẹn, về những tình thưđang còn dang dở, về những ngôn từ chan chứa ngàn lời yêu thương…chàng bị ám ảnhvới vẻ mặt ngọc mày ngà, với “dáng buồnnhư cúc, điệu gầy như mai” của Xuân…ký ức chàng trỗi dậy, chàng phải tìm đến hộpđêm và men rượu để giải sầu, và chàng không còn tha thiết đến vợ con nữa…Cuốicùng chàng đã từ bỏ tất cả và sống với chiếc bóng quá khứ “ma quái” của mình.

Và trong căn hộ đơn chiếcĐông đã gặp lại ngày xuân quá khứ của chàng. Hằng năm cứ mỗi mùa xuân là chàngnhận được chiếc áo ấm chính tự tay Xuân đan cho chàng. Chiếc áo không đẹp nhưnhững chiếc áo ấm tân thời, nhưng chàng vẫn thích chờ đợi mỗi mùa xuân đến đểcó thêm chiếc áo mới. Chàng hồi hộp khi nhận món quà đúng vào ngày cuối đông,sinh nhật của chàng. Chàng nhẹ nhàng cẩn thận mở nó, không dám nặng tay để hư bao bì bên ngoài, chàng quí trọng từng kỷ vật“thiêng liêng” của tình yêu mà Xuân gởi tặng cho chàng….Chàng đưa tay nhẹ nhàngvuốt ve chiếc áo nơi có thêu hai tên Đông Xuân với màu tím nhạt lấp ló sau haitrái tim đỏ gắn liền nhau, chàng ôm chiếc áo vào lòng rồi ngửi mùi áo mới,chàng thoảng nghe rằng hương xuân vẫn mãi còn đâu đây như chưa từng biến động.Mỗi năm chàng mặt một chiếc áo mới, mỗi năm là một sắc màu tươi trẻ. Những chiếcáo len cũ chàng cho vào tủ kiếng khóa chặt cẩn thận như sợ rằng ai đó vô tình đụngvào báu vật của chàng.

Mùa xuân năm nay Đôngcó thêm chiếc áo len thứ mười lăm, chàng không muốn như trẻ thơ cứ mãi hồi hộp chờđợi những món quà của người thương khi mùa xuân đến nữa. Chàng đã về hưu, chàngmuốn tận hưởng những giây phút hạnh phúc thực sự của tuổi xế chiều, chàng muốnhai mảnh hồn đơn ghép lại thành ánh trăng vàng giữa bầu trời tâm mông lungnày…Chàng không thể chịu đựng được nỗi cô đơn cứ dai dẳng đeo bám chàng, chàngphải sống với sự thực, chàng phải đem Xuân trở về với chàng để đêm sớm có nhaucho đời thôi quạnh quẽ.

Đông say sưa nhìn vào tấmhình mà Xuân mới gởi cho chàng, chàng ngớ ngẩn và đê mê trước nhan sắc vượt thờigian của Xuân, nàng như một cô tiên “chim sa cá lặn”, mắt biếc mày xanh và đôimôi chín mọng kia vẫn còn quyến rũ bao kẻ si tình như chàng. Chàng không muốnmình là kẻ nhút nhát yếu đuối nữa, chàng phải tự quyết định tình yêu của mình,chàng phải có tinh thần “nam nhi chi chí”…

Chàng bấm số điện thoạigọi cho Xuân và đi thẳng vào vấn đề…và chàng chờ đợi tin vui từ câu trả lời củaXuân…Lặng thinh một giây lâu rồi bỗng chốc Xuân sặc cười và nói: “Đông ơi làĐông, anh đang đùa hay đang điên thế…? Chàng rưng rức van nài một lần nữa, Xuântrả lời một cách dứt khoát: “Tốt nhất là chúng ta đừng bao giờ gặp nhau nữa nhé!”và nàng luống cuống tắt máy.

Như một gáo nước lạnh tạtvào mặt, chàng giận và hận nàng lắm. Suốt đêm chàng không sao ngủ được, chàngnghĩ đúng là hoa hồng càng đẹp gai càng nhọn! Chàng không hiểu vì sao nàng lạisợ hãi sự thực, sợ hãi tình yêu và hôn nhân trong khi Xuân cũng đã yêu chàng vàhọ đã có lời thề sắc son từ thuở ban đầu lưu luyến ấy kia mà. Chàng là Việt kiều,chàng có thể về Việt Nam hay bất cứ nơi đâu để cưới cô gái xin đẹp tuổi mườitám đôi mươi nếu chàng muốn. Đông nghi ngờ nàng…Phải chăng nàng đã dối lừachàng (?) Phải chăng nửa hồn của Xuân đã cập vào một bến lạ…(?) và chàng muốn đitìm sự thực, chàng muốn biết sự thực. Chàng muốn gây sự bất ngờ đối với Xuân….

…Mệt mõi qua hai chuyếnbay về Việt Nam, chàng vẫn không ngủ được, có lẽ không quen khí hậu và thời giờkhác biệt giữa Việt Nam và Hoa kỳ vì chàng từ giã nó đã ba mươi sáu năm, và điềuquan trọng nhất là những thao thức mà chàng dự tính cho ngày mai. Đông bước rakhỏi giường rất sớm, tắm rửa sạch sẽ, gọi người lao công khách sạn mua chochàng một tô phở điểm tâm, xong chàng mở máy laptop để xem tin tức Hoa Kỳ quanhững trang web hải ngoại như thường lệ….đến chín giờ chàng có cuộc hẹn với nhữngngười bạn cũ và đi ăn trưa tại một nhà hàng hải sản cùng họ, xong chàng trở vềlại khách sạn.

Đông đến trước tủ kiếnglớn để nhìn ngắm dung nhan của mình: “mắt to, mũi thẳng, da trắng nổi bật bênmàu tóc đen lóng lánh vừa mới nhuộm và chải keo mềm, dù có không ít vết nhăntrên khuôn mặt và những dấu chân chim tơi bời ở đuôi mắt…không sao, ta vẫn cònbảnh bao lắm, đàn ông ở độ tuổi này có được khuôn mặt thanh lãm và vóc dáng nhưta cũng hiếm…” chàng tự nhủ. Chàng đeo kiếng nâu Ray-Ban, diện bộ com-lê Francexanh với chiếc cà vạt đỏ thẩm, mang đôi giày đen bóng láng hiệu Canali Italy vàkhông quên xức nước hoa Sexy Men. Chàng bước ra khỏi khách sạn và gọi taxi đưachàng về hướng Bình Chánh vùng ngoại ô Sài Gòn, nơi có vườn đào thơ mộng nằm cạnhcăn nhà bé nhỏ của Xuân.

“Hôm nay là ngày mồnghai tết, ba mươi sáu năm trước cũng vào một chiều xuân ngày này ta và em gặpnhau ở vườn đào thơ mộng, không biết cội đào già kia có còn ra hoa không? Khôngbiết chim trên cành có còn reo vui khi mình gặp gỡ…?” hàng trăm câu hỏi cứ lẩnthẩn trong đầu chàng với ngày trở về “bí ẩn” này. Qua cửa kiếng xe, chàng ngướcnhìn bầu trời xanh bình lặng, những cụm mây trắng nổi trôi tạo thành dáng vẻthướt tha của kiều nữ ở độ tuổi xuân thì và chàng mường tượng đó là Xuân-Xuânchưa từng phai, Xuân đẹp mãi nghìn đời.

Ô kìa đây rồi! Đông bướcxuống xe, chàng lặng người một giây lâu để ngắm vườn đào không gì thay đổi. Chàngkhông biết nó là vườn đào của ba mươi sáu năm hay người ta mới trồng lại trongnhững năm gần đây. Chàng tới gốc gây đào xưa và thẩn thờ ngắm những cánh hoađào phơi sắc trong nắng và gió, những nụ hoa hồng thắm vừa mới nở e ấp duyêndáng như mời gọi chàng; khẽ lung linh trong gió mới, những cánh hoa đu đưa khiếncho bóng nắng cứ vờn qua vờn lại như những bức tranh di động muôn màu. Chàng nângmột nụ hoa rồi hôn lên nó, hít vào thật sâu để tận hưởng trọn vẹn hương hoa củangày xuân chớm nở; chàng nhắm mắt lặng nghe tiếng chim hót, tiếng gió thì thàobên những cành đào xuân thì, chàng mơ màng dư âm ngày cũ đâu đây hiện về trongphút giây thực tại…Chàng run rẩy với hạnh phúc đơn sơ mà chàng đã bị tuột mấtqua những tháng năm dài ray rức.

Chậm rãi, Đông bước tớicuối vườn đào và đi về hướng trái, căn nhà của Xuân hiện ra với tường sơn xanhmới tinh thay vì đó là ngôi nhà gỗ cũ kỹ; chàng móc địa chỉ trong túi áo ra vàdò lại số 5/35, ‘đúng rồi’. Chàng gõ cửa…tim chàng đánh thình thịch và chàng phảiôm chặt bó hoa hồng vì sợ nó bung ra khỏi tay chàng; tiếng chốt sắc vừa kéo lên,cánh cửa mở tung, một phụ nữ già run rẩy chống gậy, chân tay khô đét, đầu tóclưa thưa trắng phau, mặt xệ da nhăn, đôi mắt lem nhem, răng rụng gần hết, móm méohỏi chàng sau một cơn ho sặc sụa:

- Ông muốn tìm ai?

Đông lễ phép nói:

-Dạ thưa, cháu muốn gặpXuân cụ ạ.

-Tui chính là Xuân đây,ông cần gì?

Bà ta vừa trả lời vừaráng nhướng to đôi mắt để nhìn chàng.

Chàng chợt nhận ra giọngnói quen thuộc, khựng một lúc… rồi chàng lấp bấp:

-x…in…l…ỗi!

Bó hoa hồng vụt rơi xuốngđất, chàng lảo đảo bước nhanh về phía vườn đào như bị ma rượt…

Đến gốc cây đào cũ,Đông quỵ xuống và cảm thấy toàn thân rã rịu, một lúc sau chàng như sực tỉnh mộtđiều gì đó rồi cười như điên dại với chính chàng. Chàng há hốc mồm nhìn lên cànhxuân, những cánh đào tơ vẫn đang phơi phới khẽ gọi nửa hồn xuân, chàng lẩm bẩm:“Đào hoa y cựu tiếu đông phong!”

Một tiếng chuông chùa vừađổ ở bên kia đồi. Đông đứng dậy hướng về phía ngôi cổ tự heo hút cuối trời tây,chàng lững thững bước trên cái bóng xiêu vẹo của chính mình khi chiều đã ngãvàng nắng nhạt.

TN.TịnhQuang

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/01/2011(Xem: 3348)
Suy cho cùng, kiếp người hay cuộc tu chỉ là những lần ghé lại đâu đó. Nói ở nghĩa nào thì người ta không ai có thể chung thân với một thứ gì miên viễn. Mình không bỏ nó thì nó cũng xa mình. Ta có thể mất nó, vì nhàm chán hay không còn cơ hội nắm níu. Và cái mà ta yêu nhất cũng có nhiều kiểu bỏ ta ở lại mà đi. Hồi xưa bắt chước theo kinh mà nói thì cái gì cũng là bè cỏ qua sông... Giờ có thêm tí tuổi, nhiều lúc nằm ngẫm nghĩ một mình, thấy câu nói ví von đó hay quá chừng, hay đáo để.
14/01/2011(Xem: 3797)
Cách đây hơn một tuần, trong lúc chuẩn bị nấu nước pha trà buổi sáng, tự dưng lòng tôi nhớ quay quắt những chén trà năm xưa tôi đã từng chia sẻ với Thầy Tâm Phương trong những buổi sáng tĩnh lặng tại ngôi chùa nghèo Quảng Đức ở Broadmeadows. Tôi đã vội gọi Thầy Tâm Phương và hết sức may mắn Thầy vẫn còn nhớ tên tôi..dù rằng Thầy đã quên mất giọng nói quen thuộc của tôi rồi! Thầy rất mừng vì nghe được qua một số Phật tử biết cuộc sống của tôi lúc nầy an nhàn lắm. Tôi thưa với Thầy về cuộc đời hưu của tôi mấy năm gần đây cũng như nói với Thầy là tôi thèm vô cùng được cùng Thầy nhâm nhi lại những chén trà xưa!
14/01/2011(Xem: 3349)
Tôi trở về Huế với một tâm trạng nôn nao bồi hồi! Ba mươi năm sau mới nhìn lại Huế thân yêu, nơi đã cho tôi mật ngọt của ngày mới lớn. Phi trường Phú Bài vẫn vậy, vẫn u buồn ảm đạm dù đã trải qua bao tháng năm cũng chẳng rộng lớn gì hơn. Đã thế, tôi đặt chân xuống phi trường khi trời đã về chiều nên quang cảnh càng hiu hắt thê lương.
07/01/2011(Xem: 3545)
Chuyện Tiền thân Bahiya (Jàtaka 420) kể lại rằng : “Thuở xưa, khi vua Bramadatta trị vì ở Ba-la-nai, Bồ-tát là một vị đại thần của triều đình. Có một nữ nhân thôn quê thân thể béo mập, ăn mặc lôi thôi, làm công ăn lương, đang đi ngang qua gần sân của nhà vua, cảm thấy thân bị bức bách ngồi xuống lấy áo đắp che thân, giải toả sự bức bách của thân và nhanh nhẹn đứng dậy”.
06/01/2011(Xem: 6561)
Tôi và chị chưa hề một lần gây thù chuốc oán với nhau. Vậy mà không hiểu sao ngay từ ngày chạm mặt đầu tiên ở trụ sở Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh, bỗng dưng tôi thấy ghét chị thậm tệ. Và nhìn ánh mắt, vầng trán nhăn nhíu, điệu bộ của chị khi đứng gần tôi vào lúc cuộc họp chuẩn bị khai mạc, tôi cảm nhận, thấy biết được chắc chắn rằng chị cũng chẳng ưa gì tôi, có thể là ghét cay ghét đắng tôi, còn hơn cái mức mà tôi ghét chị. Sao kỳ vậy? Đố kỵ tài năng sao? Không phải.
05/01/2011(Xem: 3249)
Tôi sinh ra và trải qua những ngày tuổi thơ ở Huế. Như vậy cũng đủ để tôi tự hào đã chia sẻ cùng Huế với tất cả những thủy chung của lòng mình. Thế rồi, tôi cũng phải xa Huế đã 30 năm, quê hương đó vẫn rạng ngời trong tâm tưởng. Huế dấu yêu ơi! có bao nhiêu điều phải nhớ: thời thơ ấu ấm áp trôi đi, tuổi học trò thần tiên trong ngôi trường màu hồng ghi dấu bao nhiêu kỷ niệm cùng với dấu chân của những chàng trai thích đón đưa mỗi khi tan trường. Tôi với Huế biết bao tình thương mến, mỗi con đường, mỗi dòng sông, núi đồi, lăng tẩm, thành quách, chùa chiền là của Huế, là của tôi... Mặc dầu phải tất tả trong dòng đời xuôi ngược và biết rằng Huế là xứ sở thật kỳ, ở thì có điều không ưa nhưng đi xa thì lại nhớ, trong tôi vẫn chan chứa nỗi niềm với Huế. Nói như ai đó: "nằm ngửa nhớ trăng, nằm nghiêng nhớ Huế", nỗi nhớ thấm vào máu thịt, sâu lắng vào tâm hồn của những kẻ tha hương lòng vẫn bùi ngùi mỗi khi nhớ đến và chỉ muốn quay về!
04/01/2011(Xem: 4015)
Bạt: Bài viết “Phật giáo, một sự thực tập” dưới đây là bài đầu tiên trong tập hợp năm bài viết đã được phổ biến trên nguyệt san Triết học (Filosofie), 2004-2005. Đây là những tiểu luận về Phật giáo nhìn từ phương Tây, được viết từ bối cảnh của một truyền thống Phật giáo rất mới, được gọi là Phật giáo Tây phương. Tác giả, tiến sĩ Edel Maex là một nhà tâm lý trị liệu làm việc ở bệnh viện Middelheim tại Antwerpen, Bỉ. Ông là một trong những người sáng lập và ở trong ban điều hành của Trường Triết học Tỉ giảo (School voor comparatieve filosofie) ở Antwerpen. Ông là một người thực tập Thiền.
20/12/2010(Xem: 9767)
Không sinh, không diệt. Không đến, không đi. Đó chính là ý nghĩa nền tảng về một tâm xuân miên viễn. Khi chúng ta nhìn sự vật có sinh có diệt, có đến có đi, lòng ta không khỏi sinh ra những luyến lưu tiếc nuối.
14/12/2010(Xem: 2710)
Đất Bắc Ninh xưa gọi là đạo Bắc Giang, rồi đổi ra trấn Kinh Bắc, một miền phong phú về mặt dân ca, cũng là một vùng nổi tiếng về phong quang cẩm tú, về điền địa phì nhiêu...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]