Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tình yêu và thiền quán

10/03/201106:24(Xem: 2991)
Tình yêu và thiền quán

toa-thien

TÌNH YÊU VÀ THIỀN QUÁN

Tánh Thiện

         


Có những cuộc tính đã được xây đắp bằng con tim và cũng có những mối tình đã được xây dựng bằng lý trí. Bất cứ tình yêu nào cũng mầu nhiệm, thiêng liêng. Vì nó tuy hai mà cùng một nhịp diệu, cảm thông, hòa hợp trong cùng một thổn thức sau những giây phút dài im lặngcủa hai tâm hồn. Còn thiền quán là cái thấy, cái biết, cái cảm nhận của tình yêu. Nó cũng là sự hợp nhất của niềm vui và nổi khổ. Sự dung hòa hợp nhất đó tạo ra sự nhịp nhàng, hòa điệu và thăng bằng như hai cánh chim trên bầu trời cao đẹp.

               Tôi thấy có rất nhiều cuộc tình đã đổ vỡ trong đau thương, tiếc nuối, trong ngậm ngùi, đắng cay. Sự đổ vỡ đó có nguyên nhân của nó. Tôi cũng thấy có những mối tình rất trọn vẹn, đầm ấm, yêu thương trong từng hơi thở, bước đi và nụ cười. Sự trọn vẹn ấy do những nguyên nhân nào mà thành tựu? Hãy thử đi tìm những nguyên nhân đổ vỡ trong tình yêu và thành tựu trong thiền quán.

               Cái chính yếu của đổ vỡ trong tình yêu là thiếu thiền quán trong đời sống tình yêu. Khi tình yêu được khơi dậy bằng xác thịt thì sự mệt mỏi chán chường không sao tránh khỏi được. Thân xác của con người lúc mạnh, lúc yếu. Thân tâm của con người có luc lành, lúc suy. Nếu tình yêu nhằm để thỏa mãn cho nhau về xác thịt, thì đó là tình yêu của dục vọng tầm thường, của đam mê phù phiếm. Sự đổ vỡ từ đó mà ra, sự ê chề từ đó mà phát sinh. Có những liều thuốc để chữa những cơn bệnh trầm kha đó mà không cần phải nhờ đến toa thuốc của bác sĩ, cũng như không cần phải tốn kém bạc tiền. Toa thuốc đó đã có sẵn trong lòng của mỗi chúng ta. Chúng ta chỉ cần mở mắt ra để thấy, mở tâm ra để nhìn và mở lòng ra để đón nhận. thiền quán giúp cho ta thấy, biết và đón nhận một cách im lặng huyền diệu chan hòa.

               Cái thấy của thiền quán rất quan trọng trong đời sống tình yêu. Vì nhờ cái thấy đó, làm cho tình yêu thêm tươi mát, tươi thắm, và tươi đẹp giữa đất trời. Hạnh phúc hay đau khổ đều do TÂM ta tạo ra trong tình yêu. Tình yêu hạnh phúc là tình yêu thoát xác, thoát ly và thoát nợ với nhau. Tình yêu đó sẽ không còn sự bám víu, níu kéo, buộc ràng, gá nương, giả tạo. Hãy thắp sáng lên ngọn đèn thiền quán. Hãy thức dậy trong tình yêu và hãy bước đi bằng sự cô độc trong mỗi phút giây hiện hữu của cuộc đời. Tình yêu thành tựu trong thiền quán là đó.

               Thiền quán ví như người cha. Tình yêu ví như bà mẹ. Trong mỗi người chúng ta đều có hai giòng máu của mẹ và của cha. Chúng ta có tình yêu bên trong chúng ta. Tình yêu đó chính là ta, mà không phải người khác mang đến.

               Có những cuộc tình đã đổ vỡ. Có những mối tình đã chia tay. Có những cuộc vui đã mỏi mệt và có những cuộc đời đã đổi thay. Rồi tất cả sẽ còn lại những gì trong cuộc sống? Mỗi ngươi phải tự trả lời câu hỏi ấy bằng chính cuộc đời mình. Mỗi người phải tự chúng nghiệm câu hỏi ấy bằng con tim và lý trí của mình. Nếu bạn đã ngã một lần hay bảy lần trong cuộc sống yêu đương, thì thiền quán sẽ giúp bạn đứng dậy chín lần trong im lặng để bạn có thể thong thả tự do cô độc bước đi trên những đoạn đường còn lại của cuộc đời.

               Tôi muốn viết thêm điều này. Mỗi người chúng ta dù có tình yêu hay không, dù có thiền quán hay không, hay dù không có gì cả trong cuộc đời. Nhưng cuối cùng, mỗi chúng ta vẫn phải bước đi như kẻ lữ hành cô độc và mỗi chúng ta cũng chỉ là những người lữ khách, đến và đi trong âm thầm lặng lẽ giữa cuộc đời. Dù trái đất ngừng quay, dù hoa kia ngừng nở, dù mây trời tắt lặn, thì sự cô độc của mỗi người chúng ta vẫn còn mãi với thời gian và với không gian. Sự cô độc đó, là người bạn đồng hành tuyệt cùng nhất, là người yêu lý tưởng tuyệt diệu nhất trên mỗi con đường trở về của mỗi chúng ta.


 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2016(Xem: 5886)
Nhưng việc ra mắt sách chỉ là cái cớ, bởi bản thân dòng thông tin ngắn gọn rằng nhà sư Thích Phước An từ đồi Trại Thủy (Nha Trang) vào Sài Gòn đã có một sức quyến rũ đặc biệt đối với bạn bè, người đồng đạo và giới quan tâm.
16/11/2016(Xem: 11849)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16146)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11111)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7434)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 19906)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4358)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4099)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3560)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13112)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]