Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Khoảng Khắc Bằng Hữu

30/01/201911:55(Xem: 3445)
Những Khoảng Khắc Bằng Hữu
 
hoa_sen (1)

NHỮNG KHOẢNH KHẮC BẰNG HỮU
TN. Huệ Trân

 

 

“Khoảnh Khắc Chiêm Bao”, cuốn sách mới nhất của tác gỉa Nguyên Giác, được Ananda Viet Foundation xuất bản đã nằm trong hộp thư Tào-Khê Tịnh Thất 3 ngày nay, mới vừa được mang ra. Lý do là người được tặng sách đã rời thất 3 ngày, khi đi dự khóa tu niệm Phật miên mật tại Trang Nghiêm Tịnh Độ Đạo Tràng, tỉnh Perris.

Cầm cuốn “Khoảnh Khắc Chiêm Bao” còn thơm mùi mực trên tay, tôi bỗng muốn viết về những khoảnh khắc bằng hữu giữa chúng tôi và tác giả.

Kệ sách trong Tào-Khê Tịnh Thất hầu như không thiếu cuốn nào của tác giả Phan Tấn Hải-Nguyên Giác, vì tình bạn văn, bạn đạo cũng đã ngót hai thập niên.

Tôi nhớ, khi tòa soạn Việt Báo còn nằm trong một kho hàng, vùng Santa Ana, PTH cho tôi địa chỉ để đến thăm. Dù đã biết trước tòa soạn tạm sinh hoạt trong kho hàng, nhưng tới nới, không ngờ lại khiêm nhường đến thế! Nhìn quanh, chỉ thấy 3 cái bàn mà PTH đang ngự một. Hai bàn kia là sách báo …

Tôi buột miện hỏi:

- Anh Từ, chị Nhã đâu? (Chúng tôi biết anh Trần Dạ Từ và chị Nhã Ca từ khi còn ở Việt Nam và vẫn thân mật gọi nhau như thế)

PTH lúc lắc đầu:

- Tới bất thường thôi!

Tôi cười:

- Bạn “trấn thủ lưu đồn” hả?

PTH nhún vai:

-Coi như thế!

Chính lần gặp này, PTH đã tặng tôi cuốn “Cậu Bé và Hoa Mai”, nay đã tuyệt bản gốc!

Thời tôi chưa xuất gia, còn phụ trách Phật nhạc tại tu viện Hoa Nghiêm, mỗi sáng chủ nhật, PTH lại dắt cậu con trai khoảng sáu tuổi, tới sinh hoạt với gia đình Phật tử Hoa Nghiêm. Trước khi cậu bé lên lầu với các bạn, dường như đã được dặn trước, cậu khoan thai, chậm rãi bước vào chánh điện. Đứng trước thùng Công Đức, cậu xòe tay, đã có sẵn một đồng bạc; rồi cậu khẽ cúi đầu, kính cẩn bỏ tịnh tài cúng dường vào thùng Công Đức. PTH thì vẫn đứng ở ngưỡng cửa bên ngoài, chờ cậu bé hoàn tất “Phật sự” mới dắt cậu lên lầu, giao cho cô giáo, rồi ra xe, về tòa soạn làm việc.   

Tôi còn nhớ cảm giác mình lần đầu khi tình cờ quan sát cậu bé. Tôi đã cảm động trước sự nghiêm túc, thành kính hiếm thấy ở tuổi còn thơ bé này. Về sau PTH có dịp, mới tâm sự là “để cậu bé biết ý nghĩa của sự cúng dường”

Khi Việt Báo có tòa soạn khang trang ở đường Moran cũng là khi tôi nhận lời phụ trách chương trình “Phật Giáo và đời sống” trên làn sóng 1190 AM của đài phát thanh “Sống trên đất Mỹ”, mỗi tối chủ nhật, từ 8 tới 9 giờ!

Nhận chương trình này cũng do tình bạn giữa chúng tôi và chủ đài, ông doanh gia Vạn Võ. Anh than,mình là Phật tử mà đài không có một giờ Phật Giáo nào! Anh có thỉnh mời nhưng qúy thầy không nhận phụ trách thường xuyên và giờ giấc cố định được vì Phật sự đa đoan, e rằng tới ngày giờ phát thanh mà còn đang thuyết giảng ở nơi khác!

Tôi phải làm gì, nói gì, để mỗi tuần có thể lấp đầy một giờ đồng hồ? Chắc chắn không dễ dàng chút nào!

Tôi đã quỳ lạy vị Bồ Tát tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm và tôi tin rằng Bồ Tát đã nghe được lời cầu cứu của tôi.

Hơn một năm phụ trách giờ “Phật Giáo và Đời Sống” tôi không bỏ sót một buổi nào vì ngoài những buổi may mắn thỉnh mời được Chư Tôn Đức về đài trực tiếp thuyết giảng, chúng tôi đã cặm cụi lục tìm những tác phẩm viết về đạo pháp, những hành trạng gian nan của bao vị Bồ Tát đã vào đời bằng lời phát nguyện “Xuất gia hoằng Phật Đạo. Thệ độ nhất thiết nhân

Đi theo phương thức này, chúng tôi tha hồ mà tìm tài liệu, rồi tùy nội dung bài viết, chúng tôi “chia vai”, diễn đọc. Như bài “Chú tiểu chùa Cổ Pháp’ của tác giả Ngô Viết Trọng, người bạn phụ trách vai Sư Khánh Vân đã “nhập vai” mà cảm động đến run giọng khi đọc lên hai câu thơ mà Sư tình cờ nghe chú tiểu Lý Công Uẩn phạm một lỗi nhẹ chi đó, bị phạt qùy hương trước chánh điện: “Ban đêm gối mỏi không dám duỗi. Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng”.

Một chú tiểu chỉ phạm lỗi vui đùa của tuổi trẻ thơ, bị phạt quỳ hương mà thốt lên hai câu thơ như vậy quả là đã hiển lộ khí phách bậc minh vương mà vận nước đã sắp đặt để trở thành vua Lý Thái Tổ, dựng nên triều Lý hưng thịnh về cả hai mặt Đạo và Đời trong suốt chiều dài lịch sự.

Những bài viết phổ biến trên báo và những sách đã xuất bản của PTH cũng đã giúp chương trình nhiều phần linh động. Thời đó, chúng tôi chỉ thâu lại trực tiếp bằng băng cassette. Mới đây, dọn garage, bất ngờ tôi thấy một hộp giấy nhỏ trong cái túi xách cũ. Mở ra, tôi ngạc nhiên thấy lại mấy băng cassette thâu chương trình đó từ hơn 15 năm trước. Tôi mang đến một người bạn có phòng thâu, nhờ kỹ thuật chuyển sang CD nhưng chỉ thực hiện được vài băng, vì âm thanh đã qúa rệu rạo. Rất may trong số này có buổi chúng tôi diễn đọc một truyện ngắn của PTH, tựa đề “Giọng nói trong tim” thì âm thanh lại còn rõ ràng và trung thực.

Thế là tôi vừa có món quà bất ngờ, mang tới Việt Báo tặng PTH.

 

Vốn cùng lỡ mang chút nghiệp viết lách (PTH viết siêng năng, nghiêm túc, còn tôi, chỉ “lách” nhiều hơn “viết”) nên chúng tôi thường “thấy” nhau trên văn đàn, trên báo chí; rồi chính những chia sẻ với bạn đọc, nhiều khi lại gây cảm hứng để chúng tôi viết về nhau khi đồng cảm về những vấn đề bạn mình chia sẻ đó. Chẳng hạn như một bài trong cuốn “Vô Tự Thị Chân Kinh”, xuất bản từ 2005:

“ … Hôm nay, tình cờ lang thang lên lưới, tôi gặp một bài thơ có tựa là

“Mỗi ngày lên rừng lượm hái” của Phan Tấn Hải. Không biết ông Hải này lên rừng lượm gì, hái gì, mà làm bài thơ khá dài. Có lẽ ông ta phải ở trong rừng cả buổi! Tò mò, tôi bèn đọc:

“Mỗi ngày tôi lên rừng lượm hái

lo nhặt chút gì về cho con

đỡ đói, lầm lũi giở trò khỉ

vượn bám cành níu nhánh, chen qua

 

Núi rừng chữ nghĩa mịt mù sương,

cân nhắc hai tay hai chân hai

đầu phải trái, này là quả ngon

trái ngọt rồi quả độc trái hại

 

này là lá măng lá trúc hái

về mong cho con ấm bụng giữa

kiếp người buốt lạnh. Mỗi ngày tôi

lên rừng lượm hái, nhặt qủa khô,

 

hái quả chin, chăm sóc qủa tươi,

hồi hộp theo dõi bọn thợ săn

dưới chân núi lăm le đốt rừng,

tôi lo sợ khi vượn nai mễn

 

rồi không còn đất sống, những tiếng

kêu la xé lòng mỗi ngày, vết

chân thú chạy kinh hoàng chen chúc

thấy rừng núi oằn mình đau đớn …”

 

Tôi hoảng kinh, đọc tới đây, ngừng lại thở. Những câu thơ mắc nghẹn cổ họng. Tôi ngừng lại thở, như tôi vừa cùng với cả một dân tộc cuống cuồng, hỗn loạn như đàn kiến bò quanh miệng chén đầy nước nóng sôi, đang sủi bọt … Bò đi đâu mà tìm ra sinh lộ, hỡi bầy kiến hiền lành?!?!?!

Thơ không theo luật chấm, phẩy, xuống hàng, bằng trắc, âm điệu gì cả, có lẽ  vì đói quá! Vì đau quá! Vì nhục quá! Vì phẫn nộ quá! Vì tang thương qúa! Chính cái kỹ thuật bất thường này đã lột tả sự hoảng loạn, sự thống hận tột cùng của một dân tộc  …

Tôi hết chữ để viết về nửa phần sau của bài thơ, xin chỉ chép tiếp ra đây cho trọn đoạn đường còn đầy khổ nhục:

“ … Có tôi nhìn mỗi ngày khóc theo.

Mỗi ngày tôi lên ngồi trên đỉnh

núi, cắm cúi đọc sách hy vọng

cho sớm qua một kiếp người, nghe

 

những tiếng trần gian vọng từ phương

xa tới, tiếng vui tiếng buồn, tiếng

than thở tiếng cằn nhằn,có cả

tiếng người vọng từ nghìn năm trước

 

còn khô khốc mùi giấy, vang vọng

chung với những tiếng người ngợi ca,

tiếng người la mắng. Mỗi ngày tôi

lên rừng lội suối, moi giữa tầng

 

tầng lá vàng lá xanh, nhặt ra

từng chữ, nâng lên ngắm nghía trầm

trồ, chữ này nặng, chữ kia nhẹ,

chữ nọ dịu dàng, chữ kia thương

 

tổn, chữ này tuổi thọ trăm năm

chữ kia xưa cổ nhiều thế kỷ,

chữ này bán được, chữ kia khó

bán, với ẩn hiện những khuôn mặt

 

người hốc hác, đớn đau, vui mừng …

 

trần gian buồn như tre trúc

có tôi giữa đời ngồi khóc

nghe sông suối chảy trong ngực

thấy rừng mọc dựng thành tóc

 

mỗi ngày lên rừng lượm hái …”

 

Ông Phan Tấn Hải ơi! Ông là ai? Ở đâu? Đã ra khỏi khu rừng thống khổ chưa? Có biết bọn thợ săn đã lập tức đốt rừng, vượn, nai, mễn không còn đất sống? (hết trích)

 

Và PTH khi cầm cuốn “Vô Tự Thị Chân Kinh” trong tay, đã ân cần giới thiệu qua bút hiệu Nguyên Giác:

“Cuốn sách Vô Tự Thị Chân Kinh vừa phát hành tuần qua đã hiển lộ ngay ở tự thân những dị thường: Không chữ là kinh chân thật, nhưng sách dày tới 236 trang, dày đặc những chữ, những thơ, những nốt nhạc và những ngôn ngữ nghịch thường của Thiền Tông. Ngay trang bìa sau, với bài thơ Vô Môn Quan (Cửa Không Cửa), nhà văn kết bằng các dòng sau:

Gươm Bát Nhã vô thanh mà nổi gió

Cây rừng lay lau sậy vô minh

Lửa-Trí-Tuệ cháy bùng gỗ mục

Bùi ngùi qua lớp tro than

Thấy cái-không-thấy

Là thấy Vô-Môn-Quan.

Trọn cuốn sách là lời ca ngợi Thiền Tông, cũng là lời ca ngợi những người sống cuộc đời tròn đầy tỉnh thức và là lời tán thán đầy chất thơ, chất nhạc, đối với trí tuệ bát nhã, mời gọi người đọc lắng nghe xuyên suốt giữa vô lượng âm vang của rừng lau sậy vô minh để nhận ra cái vô thanh vắng lặng, mời gọi nhìn cái vô thường gỗ mục cháy tàn hoại từng sát na để nhận ra cái-không-thấy, bát ngát không tàn hoại …..” (hết trích)

 

Phan Tấn Hải-Nguyên Giác-Trần Khải là nhà thơ, nhà văn, nhà báo nên ông không chỉ cống hiến những nét thơ mộng của thơ văn mà hàng ngày còn tận tụy đọc và chọn lọc tin tức đủ loại, khắp thế giới để cô đọng chia sẻ với đọc giả những nơi ông cộng tác, đặc biệt là trên tờ Việt Báo. Như một bài trong cuốn “Sông Núi Thì Thầm” xuất bản năm 2006, tôi đã viết vì đọc được một tin nhà báo Trần Khải phổ biến:

“Tôi ngồi lặng vì xúc động sau khi đọc bài viết “Đời khó bình yên”, nhà báo Trần Khải viết về Thupten Ngodup, người sinh viên trẻ Tây Tạng đã tẩm xăng, phựt lửa trên thân mình, chạy ra giữa phố chính ở New Delhi khi cảnh sát đang giải tán đoàn người Tây Tạng tuyệt thực, đòi độc lập, để sửa soạn đón tiếp một lãnh tụ Trung Quốc.

Cây-đuốc-sống xuất hiện bất ngờ, dùng tàn lực hô lớn: “Độc lập cho Tây Tạng” rồi chạy xuyên vào giữa đám đông khiến cảnh sát khó ngăn chặn nổi anh. Với lửa phừng phừng trên da thịt, anh cứ lảo đảo chạy và hô: “Độc lập cho Tây Tạng” … cho đến khi kiệt sức, ngã quỵ với hai tay chắp trước ngực. Ngay cả động tác cuối cùng, anh cũng dành để cầu nguyện cho quê hương.

Bài viết còn dẫn chứng những hình ảnh kiêu hùng khác của tuổi trẻ Tây Tạng khi họ nhận biết sự đòi lại lãnh thổ Tây Tạng ngày càng tuyệt vọng …” (hết trích)

 

Khi được tin tôi sẽ xuất gia ngày 18 tháng 8 năm 2007 thì hai ngày trước đó, Phan Tấn Hải đã gửi một điện thư ngắn, mà chứa chan tình bằng hữu:

“A Di Đà Phật

Nhiệm mầu thay! Kỳ diệu thay!

Hải xin chúc lành! Chúc lành!

Warm,

Hải”

Điện thư này tôi đã trân quý giữ lại cùng với bao lời chúc của Chư Tôn Đức và thân hữu gần xa khắp nơi gửi về. Hầu như ai cũng ngạc nhiên vì quyết định này tôi chỉ âm thầm chuẩn bị cho mình khi tự thân mơ hồ nghe thấy tiếng gọi thiêng liêng từ không gian bao la vô hình vô tướng …

Kể từ đây PTH đổi cách xưng hô, khi gặp nhau, tôi được chào bằng búp sen tay và nhẹ nhàng mở lời “Thưa Sư Cô”

Còn tôi, cũng phải nghiêm túc hơn, không “Bạn ơi!” nữa, mà là “Thưa đạo hữu”.Chỉ có điều không thay đổi là trên văn đàn, trên báo chí, thỉnh thoảng vẫn bắt gặp những bài viết của nhau, đủ gây cảm hứng để mình viết. Chẳng hạn như một bài trong cuốn Bước Chân Cùng Tử, xuất bản năm 2007:

“Những ngày cuối năm, khí hậu đột ngột bất thường. Mưa, gió, bão, tuyết, chẳng còn biết đâu là Xuân, Hạ, Thu, Đông nữa! Ngồi trong am thất, tôi đành mở cái máy sưởi cũ, hoan hỷ với âm thanh khò khè, rên rỉ của nó còn hơn là chịu lạnh. Hạnh phúc chán!

Phaly trà nóng để cầm cho ấm tay, uống cho ấm bụng rồi ngồi vào bàn viết, mở máy đọc báo “cọp” trên Internet. Bài đầu tiên tôi nhìn thấy là của nhà báo Trần Khải, với những giòng: “Không biết thế giới đã từng có thời nào người ta ngẩng đầu lên chỉ thấy mưa hoa khắp trời hay không; nhưng thời của chúng ta thì chỉ thấy phi tiêu rợp trời. Sơ sẩy một chút là trúng phi tiêu liền, mà không hề kịp thấy được phe nào phóng ra và nhắm vào phe nào! Trời ạ, cứ lên Internet mà xem, phi tiêu bắn như mưa, còn hơn là trong truyện Cô Gái Đồ Long …”

Nội dung bài báo nói về “phi tiêu rợp trời” nhưng người đọc như tôi, đọc qua đoạn này lại chỉ mơ màng liên tưởng tới câu “mưa hoa khắp trời”. Thế là tôi tạm ngưng đọc báo, thả hồn về những khung trời mưa hoa.

“… Bảy trăm Tỳ-kheo và bốn trăm Tỳ-kheo-ni đang trên đường đến vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, nới ngài Ưu Bà Di Hằng Hà Thượng đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin được giải mười hai điều nghi hoặc và đã được lần lượt chỉ bày. Sau đó Đức Thế Tôn truyền Tôn Giả A Nan rằng:

“Này A Nan, ta nhớ quá khứ có ngàn Đức Như Lai cũng ở tại xứ này, nói pháp như vậy. Kinh này tên là Vô Cấu Thanh Tịnh, các ông nên thọ trì”

Nghe tới đây, Chư Thiên cõi Dục đem muôn thứ hoa trời rải như mưa trên kim thân Đức Phật, bảy trăm Tỳ-kheo và bốn trăm Tỳ-kheo-ni đều dứt hẳn các lậu tâm, Hằng Hà Thượng Ưu Bà Di và hàng đại chúng Thiên Long Bát Bộ đều rất đỗi hoan hỷ, đón nhận mưa hoa và tín thọ phụng hành.

 

Mở tới Kinh Vô Lượng Thọ, chúng ta đã từng vô cùng xúc động khi Tỳ-Kheo Pháp Tạng, tiền thân Đức Phật A Di Đà, quỳ trước Đức Thế Tôn – bấy giờ là  Đức Phật Thế Tự Tại Vương – để xin Từ Phụ chứng minh bốn mươi tám lời đại nguyện. Lời nguyện thứ bốn mươi tám vừa dứt thì đại địa rung chuyển, hoa trời rải xuống như mưa vì Chư Thiên biết rằng với tâm từ bi rộng lớn như vậy, Ngài Pháp Tạng phải vun trồng vô lượng công hạnh của bậc Bồ Tát, và Ngài sẽ thành Phật, độ vô lượng chúng sanh.

 

Nói đến hoa trời, làm sao không thể không nói tới không gian cực kỳ mầu nhiệm tại Pháp Hội Liên Hoa, trong núi Kỳ Đà Quật, thành Vương Xá. Pháp hội có mặt hầu hết các vị Đại A La Hán, các vị Đại Bồ Tát, các vị Thiên Tử, Đại Tự Tại Thiên Tử, các hàng Thiên Vương, A Tu La Vương, khắp hàng Chúng, Trời, Rồng … nghìn muôn ức đều về câu hội.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn vì hàng tứ chúng vây quanh, tôn trọng ngợi khen, vì lời thỉnh cầu của hàng Bồ Tát mà nói Kinh Đại Thừa là Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.

Nói kinh này xong, Đức Phật ngồi xếp bằng, nhập vào chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ.

Khi đó, hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha-mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha-mạn-thù-sa từ trên trời rơi xuống như mưa, rải trên kim thân Đức Phật và trên toàn thể đại chúng …

Nếu chúng sanh biết Tín, Nguyện, Phụng, Hành được cốt tủy lời Phật dạy trong pháp hội này thì thế giới nào, thời gian nào chúng ta ngẩng mặt nhìn trời mà chẳng thấy mãn-thiên-hoa-vũ (rợp trời mưa hoa). Tâm Phật tạo cảnh Phật thì làm sao mãn-thiên-phi-tiễn (đầy trời phi tiêu) có thể len vào được!

Có vị nào gặp nhà báo, thử nhắc khẽ về những thế giới mãn-thiên-hoa-vũ, may ra ông nhà báo đỡ buồn giữa thế giới mãn-thiên-phi-tiễn này…” (hết trích)

 

Cứ thế, chúng tôi chia sẻ thêm với nhau những gì chia sẻ cùng đại chúng bạn đọc. Nhưng có lần Phan Tấn Hải lại bật mí thêm, khi nhận cuốn “Soi Gương Không Thấy Bóng Mình”, phát hành mùa thu 2009, với những lời mở đầu, giới thiệu như vầy:

“Soi Gương Không Thấy Bóng Mình: Nhìn đời bằng mắt vô tướng.

Đó là những chữ được một vị Sư Cô lặng lẽ viết lên giấy với tấm lòng trân trọng đối với cuộc đời, vào những khi hết giờ thiền, những khi rời tay chuông mõ, hoàn tất thời tụng kinh, và ngay cả những khi thấy một cảm xúc cần ghi xuống để những câu thơ, những lời văn không kịp tan biến vào hư vô.

Tác giả tuyển tập “Soi Gương Không Thấy Bóng Mình” thường xử dụng 3 bút danh trên các cơ quan truyền thông Phật Giáo và đại chúng. Đó là: Diệu Trân, Hạnh Chi và Huệ Trân. Cả 3 bút danh đều được xử dụng tùy trường hợp, tùy bài viết cùa Sư Cô Huệ Trân. Đó không phải những bút hiệu do vị Sư Cô này tự đặt ra, mà là từ 3 vị Thầy ban cho. Bìa sau cuốn Soi Gương Không Thấy Bóng Mình chính là 2 chữ Hạnh Chi, thủ bút của Thầy Tuệ Sỹ …” (hết trích)

 

Thưa đạo hữu Nguyên Giác-Phan Tấn Hải-Trần Khải,

Nếu ôn lại những thân tình bằng hữu qua giấy mực, có lẽ phải là “trường thiên” chứ “khoảnh khắc” e không nhắc đủ.

Nhưng (lại chữ nhưng) nếu là “Khoảnh khắc chiêm bao” thì trong chiêm bao có thể nhắc, nhớ, về cả một chiều dài bất tận của lịch sử, của kiếp người, nên dẫu có ở “cuối ghềnh” rồi hành giả cũng quay về “đầu thác”, nếu muốn đi tìm chính mình. Đó là quay về với Tinh Thần Bát Nhã, là không trong, không ngoài, không thêm, không bớt, không ngắn, không dài … và sẽ không trường thiên, không khoảnh khắc!

Vị thân hữu đa tài, nhà thơ, nhà văn, nhà báo, nhà dịch thuật này còn làm tôi sửng sốt khi một lần ghé tòa soạn Việt Báo, Phan Tấn Hải đã trao tôi một bao thư khổ lớn.

Tôi vừa hỏi “Gì đây?” vừa mở bao thư, thì đó là 3 tấm phác họa chân dung, một bằng bút than đen, một bằng bút mực đen và tấm thứ ba bằng bút mầu vàng đậm. Cả 3 tấm được phác họa trên giấy trắng, cuối mỗi tấm đều có hàng chữ “Sư Cô Huệ Trân” và chữ ký “Phan Tấn Hải 2014”

PTH làm gì có hình chân dung tôi (vì tôi có chụp chân dung bao giờ!) chỉ là tình cờ gặp nhau trong những buổi sinh hoạt nào đó thôi! Vậy mà chỉ vài nét phác họa, tôi cũng nhận ra tôi!

Đáng nể thật!

 

Xin tặng Nguyên Giác-PhanTấnHải-Trần Khải những âm thanh vừa chợt hiện ra bằng chữ, ghi xuống để chúng không kịp tan biến vào hư vô:

Tôi ơi! Muôn dặm viễn trình

Tôi đi tìm lại chính mình, tôi ơi!

Thân tâm đã quá rã rời

Quay về trụ thất, mà ngồi tịnh tu!

 

Xuân qua, Hạ tới, vào Thu

Tôi tìm tôi dưới sương mù Đông sang

Vạn hữu thầm lặng mênh mang

Mà bao mầu nhiệm tương quan đất trời!

 

Bỗng nhiên!

Tôi thấy tôi rồi!

Giọt sương trên lá, ngàn lời vô ngôn!

Bông hoa dại nở bên đường

Tự-thân-bát-nhã, cúng dường ba-la!

 

Thế thôi!

Hãy chỉ Như-Là

Soi gương sẽ thấy bóng ta Như-Thị.

 

TN Huệ Trân

(Tào-Khê Tịnh Thất, thời khắc giao mùa)

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/11/2016(Xem: 11684)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 15993)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 10973)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7401)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 19622)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4322)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4060)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3521)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 12991)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
24/05/2016(Xem: 2999)
Xin chào. Xin chào Việt Nam! Thank you. Thank you so much. Xin cám ơn Chính phủ và nhân dân Việt Nam đã dành cho tôi sự chào đón nồng ấm và cho tôi hưởng lòng hiếu khách của người Việt trong chuyến thăm này. Và cũng xin cảm ơn các bạn Việt Nam có mặt ở đây ngày hôm nay, những người đến từ khắp nơi trên đất nước tuyệt vời này, trong đó có rất nhiều người trẻ đại diện cho sự năng động, tài năng và niềm hy vọng của Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]