Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Xin hãy tịnh tâm

22/06/201302:20(Xem: 3709)
Xin hãy tịnh tâm

minh_hoa_quang_duc (1)
Xin hãy tịnh tâm

Thiên Hương
---o0o---

 

Buổi sáng, trời hơi se lạnh và ẩm ướt âm u, hồi đêm hình như rất gió và ầm ì những tiếng sấm gợi lại những lo sợ xa xôi của thời còn chinh chiến.   Nhìn ra khung cửa, đồi cỏ vẫn trải dài thoai thoải, những khu vườn xung quanh đã rực rỡ những đóa hoa xuân.   Tiếng chim hót lảnh lót đầu hiên hòa nhịp dáng dấp nhí nhảnh của những chú chim sà mình xuống hàng rào rồi lại nhẹ cất cánh lên cao.  Hồn nhẹ tâng theo những đám mây trời, tạ ơn đời sống, tạ ơn sự bình yên, tạ ơn những mượt mà của tạo hóa. 

 Bước ra khu vườn nhỏ, những ngọn cỏ bâng khuâng vẫn mơn man những nụ hoa dại nhỏ nhoi e ấp, cầm tờ báo ngày và ngơ ngác trước những bản tin để nhìn thấy đời sống phũ phàng đã đánh tan những dịu dàng nhỏ nhoi của buổi sáng.  Bật vội TV để lại càng thêm hốt hoảng.   Dấu tích 11 tháng chín còn đang đậm nét trong tâm tưởng và bây giờ lại biến cố 12 tháng mười tại Bali.    

Những khuôn mặt trên báo còn rất trẻ, những nụ cười vẫn rất tươi và rất rạng rỡ, vậy mà họ đã tan đi đâu mất.  Những dòng chữ missing, dead, injured, mourning nhảy múa những vũ điệu chiến tranh và tội ác.  Hình như tôi đã đưa tay lau vội những dòng nước mắt, đã đưa tay ngăn vội những tiếng nấc trên môi, và hình như tôi chợt muốn mình đừng hiện hữu.  Hãy chỉ là đám mây trời kia bay lang thang qua những thành phố hiền hòa và bé nhỏ.  Hãy chỉ là những cơn mơ đầy ắp nụ cười.  Hãy chỉ là những bông hoa nhỏ làm đẹp cho đời và làm đêm ngày thơm ngát hương hoa. 

 Đã mấy ngày trôi qua, báo chí, truyền hình, đâu đâu cũng phổ biến những tin tức về vụ nổ tại hộp đêm Sari tại Ba li.  Đâu đâu cũng là những tìm kiếm những người mất tích, những bản tin về những sự việc xảy ra, và đâu đó vang vọng tiếng khóc than của những người có thân nhân nằm trong thảm kịch.  Có những khuôn mặt khóc, có những tiếng than não lòng, có những dòng nước mắt và những bóng người vất vưởng đi trên những đường phố ở Bali để tìm kiếm những người thân.   Và cùng trong lúc đó, ở một chốn nào lại có một nhóm người đang nhảy vui reo mừng chiến thắng, nở những nụ cười trên những xác chết, trên những đổ vỡ tan hoang.    

Một buổi sáng nào năm xưa, hồn còn trong veo như lụa trắng.  Tuổi 15 hướng đến cuộc đời với những thương yêu ngần ngật, sống với những ước mơ óng ả ngọt ngào của tuổi thơ ngà ngọc.  Cài chiếc cặp lên tóc để chuẩn bị cho buổi thuyết trình Việt văn sắp tới.  Khe khẽ mỉm cười khi nhớ tới nhỏ bạn trong buổi thuyết trình lần trước, cứ phải đưa tay vén hoài mái tóc cho khỏi xòa xuống trán.   Tà áo lụa nhẹ bay theo làn gió ban mai, đời mềm như một vần thơ và êm như một nụ cười của bà tiên trong truyện cổ.   Bước vào lớp, chợt nhìn thấy đám bạn đang láo nháo, những đôi mắt mới ngày hôm trước còn trong xanh đã ngập tràn những lo âu và hốt hoảng.   Nhỏ bạn tôi vừa nghĩ tới hồi sáng không thấy có mặt.  Căn nhà nhỏ của nó đã bị đặt bom hồi đêm.  Bố nó và chị nó bị thương nặng, mẹ nó và đứa em còn nằm trong bụng đã chết.   Một căn nhà của một cô bé lớp bảy trong trường cũng bị nổ trong gần cùng một thời điểm.  Bầu trời lúc ấy hình như chợt tối đi nhiều lắm, những ước mơ và hi vọng của tuổi mới lớn đã tan nát vì những thực tại của chiến tranh.  Hình ảnh đứa bạn tóc xõa tung vật vã trước hai quan tài một lớn một nhỏ.  Hình ảnh căn nhà mà chúng tôi thỉnh thoảng ghé chơi sau những giờ tan học chỉ còn lại một đống gạch hoang tàn đổ nát.  Cô bạn ấy sau đó rời trường, gia đình hình như tan nát, đến bây giờ tôi vẫn chưa gặp lại.  Và nhiều năm sau, tôi được nghe kể lại, đó là thành tích đặt bom của một cô bạn khác học cùng khối lớp.  Sau này cô kia đã lên hội trường thành phố kể lại để ăn mừng chiến thắng và thành tích của mình và để được ... tuyên dương.

 Bao năm qua, tôi vẫn không thể hiểu được tại sao có những người lại có thể làm những công việc như thế.  Bao năm qua, tôi vẫn không thể nào bình thản được trước những mảnh tin nhan nhản trên mặt báo.  Nào những bom thư, nào những massacres hết xảy ra ở chỗ này lại ở chỗ kia, nào những vụ thảm sát và bắn sẻ, nào những vụ khủng bố và chém giết.   Báo chí hình như cũng chỉ chờ dịp để đăng những bức hình khóc than vật vã, để in đậm khổ lớn những dòng chữ mô tả những khổ đau, những tàn ác, những thảm khốc bắt nguồn từ những tham vọng, những ẩn ức, hay những điên cuồng nào đó.  Những nỗi buồn, những đau khổ, cùng với những dã man, những tội ác, được lập đi lập lại, được nhân đôi nhân ba và loang nhanh như vết dầu dưới làn sóng truyền thông.

 Đời sống, tại sao không là những nốt nhạc dịu dàng kéo dài năm tháng và mềm mại như những tia nắng ban mai.  Ngày xưa, trong một giờ học ngoại ngữ, một cô bạn trong phần bài tập đặt câu dùng conditional clauses đã viết một đoạn văn như thế này:  “Tôi ước gì cuộc sống ướt đẫm yêu thương, những khẩu đại bác chỉ dùng kẹo ngọt làm đạn, và những quả bom khi nổ chỉ làm bắn tung những mảnh cofetti đủ màu”.   Tôi đã nối thêm vào đó “và trong đêm tối, chỉ có những ánh pháo bông và những mảnh sao sáng lửa thay cho những ánh hoả châu”.   Nếu và nếu, ước mơ và ước mơ, liệu có bao giờ những ước mơ và những phần sau chữ nếu được trở nên sự thật. 

Cuộc sống sao quá vô thường.  Trời sáng đó, rồi lại tối đó.  Trăng sáng rồi trăng lại mờ, mặt trời mọc rồi mặt trời lại lặn, mùa xuân đến rồi lại đi, mùa thu qua để mùa đông lại tới.  Người sinh rồi người lại diệt.  Hạt bụi thành người rồi con người lại tan thành cát bụi.  Cái vòng mang mang của tạo hóa, cái vòng sinh lão bệnh tử của kiếp nhân sinh đã quá khắc nghiệt, sao còn nỡ lòng nào tạo nên những thảm họa đau thương. 

 Làm sao cho mọi người đều biết yêu quý những đời sống của nhau và trân trọng những giây phút mong manh của cuộc sống.  Làm sao cho những yêu thương chỉ đón nhận những yêu thương.  Làm sao làm nhẹ đi những khe khắt của kiếp người.   Tôi chỉ là một hạt bụi nhỏ nhoi, đi tìm một ngọn đuốc thắp sáng cho cuộc sống mình còn khó khăn, còn dám nói gì đến những chuyện xa xôi.   Tâm mình còn chưa tịnh, còn chao đảo vì những nỗi buồn hoài không tan biến, nói chi đến hàn gắn những đau thương của chiến tranh.  Thôi thì hãy tự tu tâm cho đừng nghiêng ngả, hãy tự tìm niềm vui trong từng giây phút, hãy tin vào trời, tin vào người và thành tâm xin lấy yên bình trong tâm tưởng.  Tâm hãy an đi, mộng hãy trở lại bình thường.  Hãy khép đôi bờ mắt để tìm ánh sáng của đạo đâu đó.  Hãy ngồi tĩnh mặc để thấy trong tâm cảm nhận được đóa sen hồng đang rộ nở và ngan ngát hương thơm.  Hãy rán nở nụ cười trong những ngày mưa gió để làm nhẹ bớt những khe khắt của thiên nhiên.  Vậy thôi, sức nhỏ nhoi tôi còn làm thêm được gì nữa đâu ...

Đời sống,

Đâu bao giờ được như mình mơ ước,

Thôi hãy cứ mỉm cười trước những rạn vỡ thời gian

Hãy đưa tay hứng ánh nắng dịu dàng,

Hãy cứ sống như mình đang thường sống

Đừng nghĩ đến hư vô,

Đừng nghĩ đến vô thường,

Quên sân nhuế, quên xan tham, quên sầu não

Hãy cố tịnh tâm, quên bánh luân hồi

Quên câu sinh tử, quên vòng mông lung

Quên chữ thực hư, quên từ không sắc

Quên những nỗi buồn từ thưở hồng hoang

Quên những xót xa khắc khoải mỏi mòn

Hương trầm hư ảo lặng trầm mặc nhiên

Đưa tay hái đóa sen hồng,

U hờn xin trả biển ngàn xa khơi

Mênh mang khói sóng nhiệm màu

Lung linh cánh hạc ngọt ngào nắng lên

Hỏi tâm, tâm đã tịnh chưa

Hỏi mình, mình có quên buồn hay không

Hỏi trăng, hỏi gió, hỏi trời

Hỏi mây thanh tịnh, hỏi đời phù du

Hỏi hoa, hỏi bướm, hỏi chiều

Hỏi đêm, hỏi sáng, hỏi mình, hỏi ta

Hỏi trời, hỏi đất bao la

Sao cho tâm tịnh, cho lòng bình an... 

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/12/2010(Xem: 24439)
Văn hóa như hơi thở của sự sống. Chính vì vậy mà qua bao thăng trầm nghiệt ngã của lịch sử, Đạo Phật như một sức sống văn hóa ấy vẫn còn đó, như một sinh chất nuôi dưỡng nếp sống tâm linh cho con người.
10/12/2010(Xem: 9402)
Hoà Thượng thế danh Diệp Quang Tiền, pháp danh Tâm Khai, tự Thiện Giác, hiệu Trí Ấn Nhật Liên. Ngài sanh ngày 13 tháng 10 năm Quý Hợi (1923) tại thôn Xuân Yên, xã Triệu Thượng, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình thâm tín Phật Giáo. Thân phụ là cụ Diệp Chí Hoan; thân mẫu là cụ bà Phan Thị Đường. Hai cụ sinh hạ được 5 người con : 4 nam, 1 nữ - Ngài là con thứ trong gia đình, sau anh trưởng là Thầy Diệp Tôn (Thích Thiện Liên). Năm lên 6 tuổi (1928) gia đình Ngài dời về thôn Diên Sanh, xã Hải Thọ, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị. Thân sinh Ngài đã rước thầy Đồ Nho danh tiếng về nhà để dạy chữ Hán cho hai con. Hai anh em Ngài thường được cụ Đồ khen là thông minh, hứa hẹn một tương lai tốt đẹp. Năm lên 10 tuổi (1932), Ngài theo học Việt Văn tại thôn Diên Sanh.
16/11/2010(Xem: 11007)
“Nam Kha nhất mộng đoạn, Tây Vức cửu liên khai, phiên thân quy Tịnh Độ, hiệp chưởng lễ Như Lai
30/10/2010(Xem: 3614)
Tiểu sử cho biết rằng, vào năm 1542 sau khi dâng sớ lên vương triều Mạc đòi chém 18 kẻ lộng thần, nhưng không được vua Mạc bấy giờ là Mạc Phúc Hải chấp thuận. Nguyễn Bỉnh Khiêm liền cáo quan về lại quê quán ở làng Trung Am. Nay là huyện Vĩnh Bảo thành phố Hải Phòng. Dù thất bại ở triều đình không thực hiện được hoài bão như dự tính lúc ban đầu: Dân giai thức mục quan tân chính
30/10/2010(Xem: 5317)
Như tôi cũng đã thưa rồi, hiếm ai dành nhiều thời gian để nhớ về mẹ như tôi. Chuyện gì buồn vui cũng là cái cớ để tôi nhớ về mẹ bằng tất cả tim óc. Tôi đã nhớ mẹ qua bất cứ hình ảnh nào của các bậc cha mẹ trong đời mà tôi quen biết, trong giao thiệp hay chỉ nhìn thấy trên phim ảnh sách báo... Có điều là không ít hình ảnh trong số đó cứ khiến tôi đau đáu một nỗi riêng không chịu thấu: 1. Họ là những bậc cha mẹ với tuổi đời chưa bao nhiêu nhưng đã bắt đầu quên mất tuổi trẻ của mình cho đứa con đầu lòng. Một tuổi trẻ tất bật áo cơm, không có rong chơi, không có ngơi nghỉ, không có thời gian riêng tư, dẹp luôn những không gian độc lập để sống như mình vẫn ao ước thời chớm lớn. Họ Mất hết cho cái mà họ cho là Được – đó chính là đứa con! Nhìn họ tôi nhớ mẹ!
28/10/2010(Xem: 3237)
ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về. Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em h
21/10/2010(Xem: 10496)
Bướm bay vườn cải hoa vàng , Hôm nay chúng ta cùng đọc với nhau bài Bướm bay vườn cải hoa vàng. Bài này được sáng tác trước bài trường ca Avril vào khoảng năm tháng. Viết vào đầu tháng chạp năm 1963. Trong bài Bướm bay vườn cải hoa vàng chúng ta thấy lại bông hoa của thi sĩ Quách Thoại một cách rất rõ ràng. Đứng yên ngoài hàng dậu Em mỉm nụ nhiệm mầu Lặng nhìn em kinh ngạc Vừa thoáng nghe em hát Lời ca em thiên thâu
17/10/2010(Xem: 3727)
Tây Du Ký tiêu biểu cho tiểu thuyết chương hồi bình dân Trung Quốc, có ảnh hưởng sâu sắc đến sinh hoạt xã hội các dân tộc Á Châu. Không những nó đã có mặt từ lâu trong khu vực văn hóa chữ Hán (Trung, Đài, Hàn, Việt, Nhật) mà từ cuối thế kỷ 19, qua các bản tuồng các gánh hát lưu diễn và văn dịch, Tây Du Ký (TDK) đã theo ngọn gió mùa và quang thúng Hoa Kiều đến Thái, Mã Lai, In-đô-nê-xia và các nơi khác trên thế giới. Âu Mỹ cũng đánh giá cao TDK, bằng cớ là Pháp đã cho in bản dịch TDK Le Pèlerin vers l’Ouest trong tuyển tập Pléiade trên giấy quyến và học giả A. Waley đã dịch TDK ra Anh ngữ từ lâu ( Monkey, by Wu Ch’Êng-Ên, Allen & Unwin, London, 1942). Ngoài ra, việc so sánh Tây Du Ký2 và tác phẩm Tây Phương The Pilgrim’s Progress (Thiên Lộ Lịch Trình) cũng là một đề tài thú vị cho người nghiên cứu văn học đối chiếu.
08/10/2010(Xem: 15071)
Phật nói : Lấy Tâm làm Tông, lấy không cửa làm cửa Pháp. Đã không cửa làm sao đi qua ? Há chẳng nghe nói : “Từ cửa vào không phải là đồ quý trong nhà. Do duyên mà được, trước thì thành, sau thì hoại.” Nói như thế giống như không gió mà dậy sóng, khoét thịt lành làm thành vết thương. Huống hồ, chấp vào câu nói để tìm giải thích như khua gậy đánh trăng, gãi chân ngứa ngoài da giầy, có ăn nhằm gì ? Mùa hạ năm Thiệu Định, Mậu Tý, tại chùa Long Tường huyện Đông Gia, Huệ Khai là Thủ Chúng nhân chư tăng thỉnh ích bèn lấy công án của người xưa làm viên ngói gõ cửa, tùy cơ chỉ dẫn người học. Thoạt tiên không xếp đặt trước sau, cộng được 48 tắc gọi chung là “Cửa không cửa”. Nếu là kẻ dõng mãnh, không kể nguy vong, một dao vào thẳng, Na Tra tám tay giữ không được. Tây Thiên bốn bẩy (4x7=28) vị, Đông Độ hai ba (2x3=6) vị chỉ đành ngóng gió xin tha mạng. Nếu còn chần chờ thì giống như nhìn người cưỡi ngựa sau song cửa, chớp mắt đã vượt qua.
08/10/2010(Xem: 3481)
Tiểu sử chép: “Năm 19 tuổi Chân Nguyên đọc quyển Thực Lục sự tích Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang,chợt tỉnh ngộ mà nói rằng, đến như cổ nhân ngày xưa, dọc ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống gì mình chỉ là một anh học trò”. Bèn phát nguyện đi tu. Thế là cũng như Thiền sư Huyền Quang, Chân Nguyên cũng leo lên núi Yên Tử để thực hiện chí nguyện xuất gia học đạo của mình. Và cũng giống như Huyền Quang, Chân Nguyên cũng đã viết Thiền tịch phú khi Chân Nguyên còn đang làm trụ trì tại chùa Long Động trên núi Yên Tử.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]