Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Một cuộc đời

20/01/201304:20(Xem: 3001)
Một cuộc đời



que huong
Một cuộc đời

 

(Riêng tặng Tâm Phương, em học trò cũ của tôi)

 

 

 

Cuộc đời bầm dập nổi trôi của một em học trò cũ đã thôi thúc tôi viết nên truyện này.

Người ta thường bảo „sông có khúc, người có lúc“ nhưng phải nhìn nhận cả cuộc đời của em đã phản ảnh lại nhận xét trên. Bao đau thương đã dồn dập lên đôi vai yếu ớt của em, nhiều lúc tưởng chừng như không còn gượng đứng dậy được nữa, nhưng em vẫn phải sống, vẫn phải đương đầu với mọi khổ đau tràn ngập vây quanh.

 

Ngày xưa em cũng là một nữ sinh má hồng môi thắm của trường Đồng Khánh, ngôi trường màu hồng ngập tràn hoa phượng trên các lối đi. Buổi sáng sớm mai cũng tung tăng đến trường, tóc con gái còn thơm mùi hoa cau hoa bưởi trong khu vườn trăng của đêm qua, trái tim vẫn còn đập những xao xuyến vì ước mơ! Con đường Lê Lợi đã mang nặng những bước chân đi về của những cô nữ sinh với mái tóc mây buông xõa, thẹn thùng với chiếc nón nghiêng nghiêng và em cũng như bao nhiêu người con gái mới lớn khác, cũng yêu thương và đắp xây mộng ước cho cuộc đời mai sau của mình. Rồi em đã gặp và yêu một chàng trai trong quân ngũ, họ đã thành hôn và đã có với nhau hai mặt con: một trai, một gái.

 

Lấy chồng được 4 năm, những tưởng dòng đời cứ êm xuôi mãi với gia đình bé nhỏ của em, nhưng rồi cơn bão táp 30.4.1975 đã làm tan nát biết bao gia đình. Chồng em cũng phải đi cải tạo như bao nhiêu người khác nhưng anh ấy lại là người bất khuất, không chịu cúi đầu nhịn nhục lũ Việt Cộng dã man, đã vùng lên chống đối lại và đã bị bắn chết trong ngục tù sau 3 năm bị giam giữ.

Nỗi đau đớn tưởng chừng như chết được, nghe như có những hạt sỏi lao xao đang nghiền nát trái tim khô héo nhưng em vẫn phải gắng sống để còn nuôi một mẹ già và 2 con.

 

Sau đó ba mẹ con đã làm đơn xin đi US theo diện HO vì chồng chết trong trại cải tạo. Hồ sơ nộp đã 10 năm trời vẫn chưa thấy một tia hy vọng nào lóe sáng! Cuộc sống quá khó khăn, em phải gom góp tiền bạc, lo đút lót chạy chọt để được đi lao động ở Đông Đức - giấc mơ này đã làm cho bao nhiêu người ao ước.

Kiếm được bao nhiêu tiền, em đều gởi về nuôi mẹ, nuôi con, giúp đỡ anh em nữa. Rồi bức tường Bá Linh sụp đổ, em được qua Tây Đức, sống một cuộc sống tự do và an bình. Tưởng rằng qua được đây là một chân trời mới mở rộng cho em, với đôi tay và khối óc, em sẵn sàng kiếm việc làm, cực nhọc bao nhiêu cũng cam lòng, chỉ mong sao kiếm được cho nhiều tiền để lo cho những người thân còn ở lại quê nhà. Không ngờ việc em qua Đức lại làm cản trở, thiệt thòi tương lai của 2 đứa con! Thật đúng là ở đời không làm sao tính trước được mọi sự việc; qua Đức được 2 năm, hồ sơ đi US lại được cứu xét. Nếu còn ở lại Việt Nam, 3 mẹ con em sẽ được qua US theo diện HO; nhưng đơn xin của 2 đứa con đã bị chính phủ US từ chối vì mẹ đã ở Đức, đã có nước Đức cưu mang rồi!

 

Chỉ có một điều an ủi là em đã về được thành phố München này, rất dễ kiếm việc làm, em đã ra sức làm việc để kiếm tiền nuôi mẹ nuôi con. Tôi vẫn thường khuyên nhủ em, thôi thì không được đi US cả 3 mẹ con nhưng em vẫn còn may mắn hơn bao nhiêu người khác là đã đến được bến bờ tự do, không phải lênh đênh trên biển cả, trong khi đó hàng trăm ngàn người đã chết ngoài biển khơi mịt mù!

 

Rồi em lại gặp được một người đã yêu thương em hết lòng, đó là anh Nguyễn. Anh Nguyễn vẫn còn độc thân, có công ăn việc làm vững chắc; dù biết rằng em đã có một đời chồng và hai con nhưng anh ấy vẫn một lòng yêu thương và xin cưới em. Em còn trẻ, hơn nữa qua xứ người một thân một mình bơ vơ cô quạnh, cuối cùng em đã nhận lời làm vợ anh Nguyễn Họ đã sống với nhau những tháng ngày thật hạnh phúc, anh Nguyễn đã chăm sóc, thương yêu lo lắng cho em từng ly từng tí. Ai cũng mừng cho cuộc đời em đã được đền bù xứng đáng, em đã có một nơi nương tựa vững chắc. Mỗi lần đi làm đều có chồng đón đưa, em đã sống những ngày mật ngọt, ấm êm.

     Nhưng rồi, cũng lại chữ „nhưng“ quái ác, anh Nguyễn lại bị bịnh và chỉ trong một thời gian ngắn, thật bất ngờ, anh ấy đã ra đi!

 

Nhận được điện thoại báo tin, tôi quá bàng hoàng sững sốt, không tin đó là sự thật; sao cuộc đời lại quá đắng cay nghiệt ngã đối với em như vậy?

Vội vã chạy đến nơi, chỉ còn thấy anh Nguyễn nằm bình yên như ngủ, trút bỏ lại đằng sau tất cả ưu tư phiền muộn của cuộc đời; còn em gục đầu bên xác chồng, đôi mắt vô hồn làm lòng tôi quặn thắt! Em như con đò nhỏ chao đảo giữa bão táp đại dương, niềm đau đang giày xéo tâm can, đôi vai rung lên theo nhịp thổn thức làm nước mắt tôi cũng tuôn tràn theo em.

Thôi hết, từ nay em lại trở thành một thân một mình, sao bao nhiêu khổ đau của cuộc đời này lại dồn hết lên đôi vai yếu ớt của em như vậy?`Tôi đứng sững như trời trồng, cổ họng khô cứng, tôi lo em sẽ không đủ sức chịu đựng muôn ngàn đớn đau như thế này!

Kể từ hôm đó tôi luôn luôn túc trực bên em, phụ giúp em lo ma chay; ngày đưa đám em lại muốn tôi là người điều khiển chương trình tang lễ, rồi 7 tuần cúng thất, tôi theo em lên chùa đều đặn.

Chỉ còn một mình, em không đủ sức trả tiền thuê hằng tháng cho căn nhà rộng mênh mông của 2 vợ chồng, đành phải kiếm một chỗ ở nhỏ hơn. Nhờ con tôi giới thiệu và đứng ra bảo lãnh nên đã thuê cho em được một căn hộ ở gần nhà tôi, chỉ cách một trạm xe U-Bahn nên rất tiện lợi cho em những khi tối lửa tắt đèn.

Ngày ngày, sau khi đi làm về, em tìm khuây khỏa bằng cách ra nghĩa trang thắp nhang cho chồng, ngồi bên mộ tỉ tê một hồi rồi mới chịu ra về. Nhiều khi chán nản cùng cực vì cô đơn quá, em muốn trở về Huế để ngồi yên dưới mái nhà xưa, bên mẹ bên con, nhưng em phải sống, phải làm việc hết mình để còn lo cho những người thân yêu đó. Đúng là em đã can đảm, đã có một sức mạnh, sức mạnh ấy là tình thương, là nước mắt hướng về quê nhà với một trái tim hiếu thảo và nhân hậu bao la!

 

Tôi biết niềm đau của em không ai chia xẻ nổi, trong tất cả những mất mát trên đời này, chỉ có mất tiền là nhẹ nhàng vì mình cũng có thể kiếm lại được, còn mất mát nào cũng đau đớn cả. Biết vậy nhưng tôi cũng phải an ủi khuyên lơn em, giúp cho em được việc gì tôi cũng không từ nan và em đã nhận tôi như một người mẹ thứ hai trên xứ người. Tôi cố hết sức đem lòng thương yêu của mình để xoa dịu trái tim tan nát của em được phần nào hay phần đó vì chỉ có tình thương mới hàn gắn bớt được mọi khổ đau của cuộc đời.

Là một Phật tử thuần thành nên em đã đặt hết niềm tin của mình vào phép Phật nhiệm mầu, tìm khuây trong lời kinh tiếng kệ. Lên chùa, quỳ trước Phật đài, nhìn bóng dáng từ bi của chư Phật, em cảm thấy tâm mình được bình an hơn. Tâm bình thì giọt sương đọng trên ngọn lá, tâm động thì giọt sương là nước mắt và tâm an nhiên tự tại thì giọt sương đó là hạt kim cương. Cổng tam quan của mỗi ngôi chùa không phải chỉ là cái mốc êm đềm trên một quãng đường học trò thời trẻ dại, hình ảnh ấy chính là nơi tu dưỡng và nơi tái tạo cuộc sống trong suốt cuộc hành trình viên miễn của kiếp nhân sinh và tiếng chuông chùa bồng bềnh dội vào những tầng mây cao như mời gọi lảng  khuây.

*

*     *

Chỉ có ánh sáng của Đạo Pháp mới mở lòng từ bi cứu độ chúng sanh cũng như vầng trăng có bao giờ thiếu vắng, vầng trăng ấy vẫn không ngừng đi tìm bóng tối để soi sáng vô minh. Từ đó, em đã biết tự mỉm cười với chính mình trong ý nghĩ: „Cơn bão nào rồi cũng qua“; những gì hiện hữu hôm nay rồi cũng sẽ tan theo vô thường, chợt đến rồi chợt đi mà thôi:

„Thiên thượng phù vân như bạch y“.

 

München....

Nguyên Hạnh HTD

Ý kiến bạn đọc
27/04/201500:22
Khách
Một câu chuyện buồn trong một khung cảnh bất an của một đất nước lắm nhiêu khê cìm nổi được tái tạo qua ngòi bút giản dị, trong sáng nhưng đấy ắp tình người và đạo lý của một người vưa là chị cả vừa là bạn hiền của tôi, chị Hoàng thị Doãn.
Em chúc chị luôn thanh an, vui khoẻ để tiếp tục công hiến cho bè bạn bốn phương những bài viết đậm đà như vầy mãi nghen chị,
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2016(Xem: 5881)
Nhưng việc ra mắt sách chỉ là cái cớ, bởi bản thân dòng thông tin ngắn gọn rằng nhà sư Thích Phước An từ đồi Trại Thủy (Nha Trang) vào Sài Gòn đã có một sức quyến rũ đặc biệt đối với bạn bè, người đồng đạo và giới quan tâm.
16/11/2016(Xem: 11736)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16062)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11048)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7427)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 19729)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4356)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4096)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3552)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13039)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]