Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm phục Lý Quang Diệu

27/03/201504:42(Xem: 3199)
Cảm phục Lý Quang Diệu



ly_quang_dieu

Cả thế giới đang nói về một ông già chín mươi mốt tuổi vừa nằm xuống. Nói với tất cả lòng kính phục và ngưỡng mộ: quốc phụ Lý Quang Diệu.

Ông là người gốc Quảng đông, đã bốn đời trôi dạt đến hòn đảo bé nhỏ nằm giữa thủy đạo Ấn độ dương và Thái Bình Dương. Tổ phụ của ông, cũng như những người Quảng Đông ở Hội An, Ninh Hòa, Chợ Lớn, vì đất nước Trung Hoa loạn lạc đói nghèo phải bỏ xứ mà đi tìm đất sống. Ta có thể hình dung họ qua hình ảnh những người Tàu bán cóc ổi, mực khô lặng lẽ trước các cổng trường, những người ở dưới mức nghèo khó trong xã hội.

Nghèo, nhưng họ là những người rất giàu nghị lực và ý chí. Đó cũng là cội nguồn làm nên ông, một con người có thể gọi là vĩ đại.

Ông xây dựng một đất nước Singapore từ một thuộc địa của Anh, cách đây không lâu, còn bị xếp vào thế giới thứ 3, gồm những nước kinh tế què quặt, lạc hậu, trở thành một đất nước có nền kinh tế hùng mạnh và vững chắc trong thế giới thứ 1, thế giới của những Mỹ, Anh, Đức, Nhật…

Người ta nói nhiều đến tài trí của ông, đến cách ông vượt qua số phận, đến ngôi vị thủ tướng 31 năm, lâu dài nhất thế giới. Người ta cũng nói đến sự độc đoán của ông trong cách trị nước, nói đến đương kiêm thủ tướng Lý Hiển Long, con trai cả của ông, như thể cha truyền con nối.

Nhưng dù nói thế nào, người ta vẫn thương yêu và quý trọng ông, trong khi vẫn không ngớt khinh ghét những Kim Jung In, Kim Jung Un và bằng mặt mà không bằng lòng cái chế độ toàn trị lâu dài nhất thế giới này.

Cũng không khó để lý giải cái mật mã tưởng chừng là bí ẩn đó. Cứ xem cái cách người dân Singapore bày tỏ tiếc thương. Họ lặng lẽ xếp hàng ghi vào sổ tang chứ không vật mình vật mẩy gào khóc như ở Bắc Hàn. Có cảnh sát làm nhiệm vụ giữ trật tự, nhưng không có công an chìm, mật vụ, dư luận viên.

Còn con trai ông cũng nối nghiệp cha làm thủ tướng, nhưng bằng tài trí của chính mình, chứ không phải được ông chỉ định. Cha truyền, là truyền cái ý chí và nghị lực. Con nối, là nối tiếp những việc cha làm chưa xong, cho dân cho nước.

Ông và vợ ông du học ở Anh, chắc có lần đi ngang qua mộ Các Mác, nhưng không đem cái học thuyết viễn vông đó vào đất nước mình. Ông học ở người Anh mẫu quốc từ những điều nhỏ nhặt nhất, tầm thường nhất. Ông kể, lần đầu tiên đến Anh, trông thấy một cái hộp đựng báo bên hè phố, ai muốn có báo cứ việc bỏ tiền vào đó rồi lấy báo, muốn có tiền lẻ cũng cứ bỏ tiền chẵn vào rồi tự đổi lấy tiền mà chẳng có một người nào đứng coi bên cạnh. Ông bảo, điều đó làm cho tôi sáng mắt ra, như thế mới là văn minh.

Đó là văn minh, còn công bằng, ông nói, xã hội không có kiểu công bằng ai cũng được hưởng phúc lợi như nhau. Có người không đồng tình trong việc ông trả lương rất cao cho các bộ trưởng, ông bảo họ điều hành đất nước như một doanh nghiệp, họ phải được hưởng lợi như một doanh nhân.

Sáng suốt nhận ra trong xã hội, cái không công bằng chính là trí thức, nên ông rất quý trọng nhân tài. Phải đặt họ ở vị trí xứng tầm và giao cho họ những việc xứng đáng. Một đảo quốc bé nhỏ không lớn hơn đảo Phú Quốc, tài nguyên không có, ngay cả nước sinh hoạt phải mua từ Mã Lai, mà vươn lên thành một nước người dân có thu nhập cao vào hàng nhất thế giới, tất cả là do con người, do biết thu nạp và phát huy kiến thức.

Một điều nữa làm cho đất nước Singapore giàu mạnh là gần như không có tham nhũng. Mà muốn chống hay diệt, trước hết chính ông và gia đình ông phải trong sạch. Ông đi máy bay hạng thường, ở khách sạn cũng hạng thường, sống trong một ngôi nhà bình thường. Và tiết kiệm. Cô con gái duy nhất của ông kể, cha tôi phạt rất nặng nếu đứa nào ra khỏi phòng mà không tắt đèn, hay để nước nhỏ giọt vì vòi đóng không chặt.

Đúng là ông độc đoán, hay gọi là độc tài cũng được, nhưng bằng ý chí xây dựng tổ quốc, chứ không phải bằng sắt máu. Đằng sau một nước Trung Hoa do Mao Trạch Đông khai sinh, là những đống xương vô tội của hàng trăm triệu người, không phải cao bằng đầu mà cao như núi.

Còn công bằng và văn minh như ở nước ta, thì đã hơn một triệu người phải lạy dài bỏ nước ra đi. Suốt ngày ra rả noi gương Bác, học tập Bác, nhưng cái điều rõ nhất ai cũng thấy là lối sống của Bác, thì chẳng ai chịu học. Bác ở nhà sàn, nằm ngủ trên chiếc giường trải chiếu cói, ngồi nghỉ ở chiếc ghế mây đơn sơ. Người khai sinh ra đảng đạm bạc như thế, nhưng các tổng bí thư, kẻ thì đúc trống đồng, người thì ngự trong ghế có đầu rồng như chiếc ngai của hoàng đế.

Ông nói ít làm nhiều, trong khi ở ta, nói quá nhiều mà làm chẳng bao nhiêu. Từ tổng bí thư đến anh tổ chức đảng, lúc nào cũng nói trồng cây gì, nuôi con gì, mà đến nay sau bốn chục năm hòa bình, cũng chưa biết con đó là con gì, cây đó là cây gì.

Dường như có dạo người ta cũng mời ngài họ Lý sang làm cố vấn danh dự, ra cái vẻ khiêm nhường cầu tiến, nhưng thực ra chỉ nghe qua rồi bỏ. Nếu bảo trong đời ông điều gì sai lầm khiến ông thấy ngượng chính là những lần đem đờn mà khảy tai trâu ấy.

Nói về ông, về những việc bình thường mà ông làm cho trở nên phi thường, tưởng chừng không bao giờ đủ. Ông là một chính trị gia lỗi lạc, vì ở ông có cả nhà yêu nước, nhà kinh tế và nhà giáo dục. Ông để lại chẳng những cho nhân dân Singapore mà còn cho cả nhân loại một di sản hành động rất trí thức mà cũng rất bình dị.

Ông độc tài mà dân chủ, còn ta thì ngược lại. Ước gì có một người độc tài như ông để đưa đất nước vượt qua cái đêm dài của sự dốt nát, ngu muội. Bốn mươi năm trước, Sài Gòn được thế giới ví như hòn ngọc viễn đông, hơn hẳn Singapore chỉ là một cảng biển sầm uất, mà nay, ai cũng thấy cách xa một trời một vực.

Tang lễ của ông chắc quy tụ nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới. Người ta đến để một phút yên lặng tiễn biệt ông đi về với cát bụi chứ không phải đến để nhìn một cái xác nằm trong lồng kính.

Xin gửi đến ông, một người bình thường mà phi thường, lòng ngưỡng mộ của một công dân hạng hai tầm thường ở đất nước rừng vàng biển bạc mà vẫn nghèo nàn lạc hậu. Nếu tôi có khóc, chẳng dám khóc thương ông, mà khóc vì tủi hổ. Mong ông mỉm cười mà yên nghỉ.

27/3/2015
Khuất Đẩu

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/02/2013(Xem: 4393)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn : - Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hỗn. Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm". Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
08/02/2013(Xem: 12930)
Nhân một hôm đến tại tư thất thăm cụ Ngô Trọng Anh, Giác Lượng đọc được bài thơ của Cụ Hoàng Văn Minh, tức nhà thơ Điền Viên, đăng trên Đặc San của Hội Người Việt Cao Niên, vùng Hoa Thịnh Đốn Xuân Kỷ Sửu (2009). Với tựa đề: NƯỚC NON
04/02/2013(Xem: 13385)
Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.
27/01/2013(Xem: 3119)
Cảm nhận nguồn sông trăng, Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả. “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.
21/01/2013(Xem: 10947)
Một lòng yêu nước với yêu quê Sang lánh trời Tây vẫn nhớ về Non nước đớn đau lòng tu sĩ Đêm về gợi nhớ bóng hương quê Nghìn năm văn hiến giờ đâu thấy Nghĩa lý luân thường mất đã lâu Khổ đau oằn quại triền miên kiếp
20/01/2013(Xem: 2981)
Cuộc đời bầm dập nổi trôi của một em học trò cũ đã thôi thúc tôi viết nên truyện này. Người ta thường bảo „sông có khúc, người có lúc“ nhưng phải nhìn nhận cả cuộc đời của em đã phản ảnh lại nhận xét trên. Bao đau thương đã dồn dập lên đôi vai yếu ớt của em, nhiều lúc tưởng chừng như không còn gượng đứng dậy được nữa, nhưng em vẫn phải sống, vẫn phải đương đầu với mọi khổ đau tràn ngập vây quanh.
15/01/2013(Xem: 6234)
Chiến tranh và hòa bình (tiếng Nga: Война и мир) là nhan đề một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865 - 1869.
30/12/2012(Xem: 4218)
Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe. Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tuỳ cơ giúp đỡ cô em nhút nhát. Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:
17/12/2012(Xem: 4445)
Cách đây mấy năm, trên một chuyến xe đò muộn về thăm quê. Khi xe đi ngang qua cầu Ngân Sơn, thì lúc ấy đã 5 hay 6 giờ chiều. Dù đã nhiều lần đi qua đây, nhưng có lẽ buổi chiều cuối xuân năm ấy, là buổi chiều mà tôi đã nghĩ nhiều nhất về Võ Hồng. Tôi tưởng tượng rằng, hồi còn nhỏ chắc mỗi chiều ông vẫn thường ra đứng ở nơi này, để nhìn ráng đỏ nơi rặng núi phía Tây kia ? Rồi nhìn bóng chiều xuống chậm trên dòng sông này? Chắc phải vậy! Vì trong tác phẩm của Võ Hồng thì cái đẹp của thiên nhiên và cái đẹp của đất trời, tôi cho là những cái đẹp mà Võ Hồng đã viết hay nhất. Nhưng trong cái đẹp đó, Võ Hồng luôn luôn đưa vào thiên nhiên một chút sầu, hay ngậm ngùi cho một cái gì đó đã hay đang sắp mất đi trên cuộc đời này. Tại ông bi quan chăng? Hay tại vì cái đẹp mong manh của những buổi chiều tà trên dòng sông tuổi thơ dạo nào cứ ám ảnh ông mãi.
10/12/2012(Xem: 3201)
Đúng là những ngày tháng không quên thật! Sau 30.4.75, tôi bị ở lại Việt Nam là một điều quá ngu xuẩn rồi. Tự mình làm hại mình và hại cả tương lai con cái nữa. Niềm đau này thật không làm sao phôi pha được với thời gian, vết thương trong lòng tôi cứ chua xót ngậm ngùi!
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]