Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoa Khế Lưng Đồi

30/12/201205:38(Xem: 3570)
Hoa Khế Lưng Đồi
chualongson-hinh2
Bước lên chiếc Lambretta hàng, tôi tự nhiên thấy Trâm ngồi thu hình ở một góc xe.

Tôi quen Trâm một tháng trước. Nàng là y tá viên điều dưỡng vừa ra trường chưa được một năm. Đang làm việc ở Đà Nẵng thì có giấy đổi vào Nha Trang. Hôm mới vào nàng tìm đến địa chỉ tôi do lời dặn của anh Hiệp, anh rể nàng. Hiệp là bạn học của tôi hồi ở trường Khải Định. Có một cô em làm việc bị đổi đi tỉnh xa Hiệp viết thư giới thiệu cho tôi, gián tiếp thay anh để tuỳ cơ giúp đỡ cô em nhút nhát. Sau khi đọc thư của Hiệp, tôi hỏi:

- Xin lỗi cô vào Nha Trang lần đầu tiên?

- Vâng ạ. Em mới tới đây lần đầu.

Giọng nói trầm, thứ giọng thổ ít gặp nơi một thiếu nữ. Tôi không đợi nghe một giọng nói như vậy nên tôi thấy thích đặt câu hỏi để nghe giọng ấy trả lời.

- Cô đã có chỗ trọ rồi?

- Dạ có. Em ở chung với một chị bạn cũng làm ở nhà thương y tế.

- Có gần đây không?

- Dạ ở 153 đường Phước Hải.

- Chỉ có hai chị em ở ?

- Dạ, chỉ có hai.

Tôi gật đầu:

- Ở thế thì rộng rãi thong thả khỏi bị trẻ con quấy rầy. Nhưng cũng có điều phiền. Không bị trẻ con quấy rầy thì lại bị người lớn phiền nhiễu, người lớn…

Tôi ngần ngừ không biết nên nói tiếp như thế nào cho tiện. Thì nàng mỉm cười :

- Em hiểu nhưng không có cách nào khác. Ở đời phải biết chọn sự bất tiện nào tương đối nhỏ hơn hết.

Khi đặt tách trà lên môi tôi thấy nàng đăm chiêu nhìn ra cây ngọc lan đứng cạnh cửa sổ phòng tôi. Nàng ngưng uống tách trà, say mê nhìn thật lâu như không có tôi ngồi trước mặt. Một lát, tôi chợt thấy nơi vành mi mắt nàng có lóng lánh nước mắt. Rồi hai giọt nước mắt đọng lại, thành hình. Nàng quay về tôi, đưa cánh tay áo chặm mắt, mỉm cười ngượng nghịu:

- Xin lỗi anh…

Tôi ngắt lời:

- Chắc cô đang nhớ nhà.

- Dạ, nhìn cây hoa ngọc lan, em nhớ cây ngọc lan nhà em. Em nhớ bà Ngoại. Mỗi buổi sáng em hay dậy sớm ngắt hoa ngọc lan đặt lên bàn Phật cho Ngoại. Em đi xa, chắc chỉ có ngoại là nhớ em nhiều nhất.

- Có xa nhà lần đầu tiên nên sự nhớ nhung xót xa. Lâu dần sẽ quen đi.

- Vâng nhưng phải lâu lắm mới quen được. 

Sau đó tôi đến thăm nhà trọ của Trâm một lần. Tôi lưu ý nhìn cô bạn cùng ở chung với nàng để tìm đoán xem những loại ý nghĩ nào hay đóng đô ở một khối óc như vậy. Cô bạn có đôi môi nóng bỏng tình cảm và một nốt ruồi dưới cằm. Vành mắt bôi nhiều bút chì than. Tóc bỏ rối loà xoà theo kiểu rong biển, man dại, say đắm.

Vài tờ tuần san bìa loè loẹt in hình tài tử chiếu bóng vứt trên giường, trên đi văng. Màn treo cửa mang hình vẽ méo mó lộn xộn. Trong khung cảnh đó, Trâm vẫn đơn sơ và tự nhiên như một lá cỏ non giữa đồng nội. Không có sự pha chế, tính toán, bôi sửa nào trên đôi mày dài màu nhạt đó, trên hàng lông mi cong, trên đôi môi phơn phớt màu hồng. Nàng cười bảo:

- Em ở đây cũng dễ chịu. Thỉnh thoảng em và chị Hoà- tên chị bạn - đi phố gặp anh.

- Tôi ít hay đi phố lắm.

- Thế mà lần nào đi phố cũng gặp anh.

Tôi không biết đó là lời nói đùa hay lời nói thật. Sau đó Trâm đổi nhà trọ, những cô thiếu nữ độc thân thường phải đổi nhà trọ luôn, y như những con mèo phải tha con đi giấu khắp mọi xó xỉnh. Những chiếc Vespa, những chiếc xe gắn máy, thỉnh thoảng những chiếc Jeep hay đậu trước nhà. Hàng xóm không ưa những tiếng xe rồ khi tắt máy và khi nổ máy, tiếng còi ậm oẹ gọi cổng. Phải dọn nhà để đánh lạc những chiếc xe thiếu nhẫn nại. Tôi mất hút Trâm.

Hôm trước đây khi cầm một cuốn tiểu thuyết mới xuất bản, tôi nhìn lâu vào bức ảnh một thiếu nữ in ngoài bìa. Hao hao giống một người nào? Đôi mắt khép hờ, mơ màng xa vắng. Mái tóc buông dài. Đôi môi ... tôi chợt nhớ đến Trâm. Đúng là khuông mặt đó.

Tôi nhìn kỹ vào bức ảnh và tôi thấy Trâm đẹp. Lạ chưa? Có nhìn vào bức ảnh của một người khác tôi mới thấy rõ mặt Trâm. Thì ra khi đối diện với nàng, tôi bị giọng nói, nội dung câu chuyện, bị xúc cảm của tôi làm sai lệch đi hình ảnh của nàng khiến khi hình dung lại tôi thấy những đường nét của khuôn mặt thấp thoáng mơ hồ. Huống chi, không biết đã mấy tháng rồi, tôi không có dịp gặp lại Trâm. Tôi mua cuốn tiểu thuyết về đặt đứng ở bàn, ở đầu tủ, ở trên mặt radio, cạnh đầu giường. Thỉnh thoảng tôi nghĩ: " Hôm nào gặp xem có phải Trâm đẹp như thế không? ".

Bất ngờ mới hai hôm thì chợt gặp nàng trên chuyến xe Lambretta hôm nay…

Tôi bước lên xe, ngồi vào chổ trống mà hai người hành khách đã xích lại để nhường cho tôi:

- Lâu quá em không ghé lại thăm anh. Hai tháng nay bận liên miên. Hết chủng ngừa bệnh dịch hạch đến ngừa bạch hầu, đậu mùa. Cứ cách một hôm phải trực một hôm.

- Chắc hôm nay cô mới được rảnh nên đi về nhà quê chơi đấy.

- Đâu có được như vậy? Em đi với đoàn công tác lên Phú Vinh chủng ngừa dịch hạch. Đáng lẽ đi xe của Ty Y tế, nhưng em bận tí việc phải tới trễ nên đành đi Lambretta hàng.

- Cô thôi ở Phước Hải.

- Em đi đã lâu. Thay nhà hai lần nữa rồi. Hiện em ở đường Mạnh Tử.

Một xe chở hàng cao nghễu nghện ầm ầm chạy tới làm át cả tiếng nói của Trâm. Cả hai chúng tôi im lặng. Gió ban mai lạnh buốt thổi tạt vào hông xe. Xe chạy ra khỏi thành phố. Màu xanh của những ruộng rau muống làm tươi mát đôi mắt. Trâm chỉ tay lên triền núi cao, xuýt xoa:

- Có con đường đi trên đầu núi kìa. Đẹp quá anh nhỉ?

Tôi thường thản nhiên trước những tiếng xuýt xoa ngạc nhiên của đàn bà con gái, nhưng không thể chống cự nổi với giọng nói trầm ấm của nàng. Nhất là vào một buổi mai lạnh như thế này. Giọng nói ấy như có chứa ánh nắng trên đồng lúa chín màu vàng, như là hơi thở của những chùm hoa màu đỏ. Tôi nói:

Con đường đó đi từ chùa Hội sang Phật học viện. Phật học viện nằm kia. Nàng nhìn theo ngón tay tôi chỉ.

- Em có biết Phật học viện ở Huế. Anh Chơn Tánh con của O em tu ở đấy.

- Cô ở trong gia đình Phật tử?

- Không, em chỉ đọc kinh sách và theo Ngoại đi chùa. Ngoại em sùng đạo lắm.

- Tôi hiểu. Càng về già người ta càng đến gần tôn giáo hơn. Lúc còn trẻ người ta tin ở sự thông minh của khối óc mình và sức mạnh đôi cánh tay mình. Khi lớn lên và càng đi sâu vào năm tháng, người ta nếm nhiều thất bại, và người ta bắt đầu hoang mang. Tôn giáo là nơi nương tựa…

Tôi nhún vai một cái nhẹ tỏ ra chưa tin mấy ở lời mình vừa nói, rồi hạ thấp giọng:

- Tôi không thông thạo về Phật pháp nên có thể nhận xét vừa rồi của tôi là sai. Chết! Cô vừa nói cô có đọc nhiều kinh sách. Tôi thật xấu hổ vì đã làm nhằm cái việc "Ban món vũ phủ".

Nàng cười xoà.

- Anh làm em xấu hổ thì có.

Xe đậu ở chợ Mới, bỏ một gánh cá xuống.

- Khi nào có dịp tôi sẽ đưa cô đi thăm Phật học viện.

Chúng ta sẽ đi trên con đường chạy vắt lưng núi đó. Ngày tết người đi du xuân trên con đường ấy rất đông.

- Đứng trên lưng núi nhìn thấy cả Nha Trang?

- Thấy rõ lắm, dưới mắt mình, bãi biển, xóm Bống, Tháp Bà, Cầu Đá, Phường Củi… Quay ra sau là rừng dừa xanh mướt bóng loáng của Vĩnh Điền, Ngọc Hội. Phía Nam là ruộng.

Nàng khẽ gật đầu:

- Cảnh trí từ trên cao nhìn xuống bao giờ cũng đẹp. Năm ngoái em đi Quy Nhơn chơi có leo núi Gành ráng thăm mộ Hàn Mặc Tử. Đứng trên mộ nhìn xuống vũng bể Qui Nhơn uốn cong một màu xanh ngọc bích nằm im lặng, bất động câm nín. Em nhớ. Em nhớ đến câu thơ của Hàn Mặc Tử:

Chao ôi ! Ghê quá trong tư tưởng,
Một vũng cô liêu cũ bạn đời.

Em chắc Hàn Mặc Tử cô đơn, đau khổ, nhìn xuống, nhân gian cách biệt hẳn với mình kia, nhìn vũng bể mà xanh, nghĩ đến thân phận mình, nghĩ đến cái chết giải thoát nên mới viết dược mấy câu thơ đó.

Tôi mỉm cười:

- Cô có tâm hồn thi sĩ. Vậy khi thăm Phật học viện, tôi sẽ đưa cô đi thăm những luống hoa đẹp do thượng toạ Giám viện tự tay chăm sóc lấy. Cô sẽ nhìn thấy những cây khế ở lưng đồi trổ hoa tím, những chùm hoa hình khối lục lăng mường tượng những ngôi cổ tháp.

- Anh có vẻ thông thạo cảnh đó.

- Cô đoán không lầm. Tôi có dạy ở trường Bồ Đề nên được quen với Thượng toạ Giám viện và với hầu hết các chú ở viện.

- Thế thì hay quá. Chúng ta chọn một ngày chủ nhật nào và em nhờ anh hướng dẫn cho đi xem.

Tôi nhìn khắp các hành khách trong xe, toàn là những bà buôn bán áo quần nhàu nát, bàn chân bụi bặm xỏ vào đôi dép Nhật Bản. Quang gánh móc ở sau xe đu đưa theo nhịp xe chạy. Tôi hạ thấp giọng:

- Đợi tình thế quang đãng hơn đã. Phật học viện vừa bị bố ráp hôm hai mươi tháng tám. Trường Bồ Đề đã đóng cửa.

Nàng gật đầu:

- Vâng. Em hiểu.

Nàng nhìn giây lâu ra cửa xe, mắt lước qua những dãy cây ôma, cây mít, cây bưởi, của vườn nhà người ta nằm dọc đường lộ. Mi mắt khép hờ một nửa. Chắc chắn là tôi không lầm nếu tôi nghĩ rằng nàng đang để trọn tâm hồn nghĩ về bà Ngoại. Giữa mùa Pháp nạn, tiếng chuông chùa im bặt, lại thêm đứa cháu đi xa. Hoa ngọc lan phải tự tay cụ hái dâng lên bàn Phật. Mỗi ngày hái hoa nhớ Cháu, không biết thân gái ở nơi phương xa…
Xe chạy đến bệnh xá Phú Vinh, tôi phải đưa tay vỗ vào vai anh tài xế ra hiệu cho anh ngừng xe. Tôi nói:

- Xe đến Phú Vinh rồi. Cô chuẩn bị xuống.

Nàng giật mình quay lại. Vẻ mặt thẩn thờ. Bước xuống xe trả tiền cho anh phụ xong, nàng gật đầu chào tôi mà không nói. Xe rồ máy lao vút tới. Tôi nhìn ra cửa sau. Nàng đi chậm rãi cúi nhìn xuống đất. Chắc tâm hồn đang quanh quẩn xung quanh gốc ngọc lan, bà Ngoại, con đường Phật học viện, màu đất đỏ đượm trên đầu núi.

Trường Bồ Đề đóng cửa! Tôi nhớ những ngày hưng thịnh, tiếng chuông trường reo vang và học sinh từ các nẻo tấp nập vào trường. Các chú Điệu đồng phục áo nhật bình màu nâu đi chầm chậm thành một hàng dài từ tĩnh thất xuống. Dáng đi khoang thai, nét mặt nghiêm nghị khiến tôi nghĩ đến các vương gia tử đệ họ Tạ, họ Vương, đời Tống ở ngõ Ô y, thanh cao trong chiếc áo thâm dài. Các học sinh nhỏ bám vào các chú vòi vĩnh đủ điều. Thầy giáo bảo:

- Các em hãy đề nghị một người phụ trách bích báo của lớp.

Tiếng nói rào rào nổi lên ngay:

- Thưa thầy, bọn em đề nghị chú Huệ Thông.

- Chú Huệ Thông, thưa thầy, chú Huệ Thông.

Chú Huệ Thông đứng dậy nghiêm trang thưa rằng ngoài bài học ở trường còn phải bận học kinh điển trên viện và phụ trách hộp cứu thương của Viện. Thầy giáo thấy chú nói có lý, nhưng các em nằng nặc không chịu:

- Thưa thầy, chú Huệ Thông vẽ đẹp.

- Hoan hô chú Huệ Thông

- Hoan hô.

Chú Huệ Thông đành phải nhận chức trưởng ban bích báo.

Thầy nói:

- Các em hãy bầu liên đội trưởng của lớp.

- Chú Nguyên Lượng, thưa thầy, chú Nguyên Lượng.

- Hoan hô chú Nguyên Lượng.

Chức vụ gì cũng "mấy chú", công việc gì cũng "mấy chú", thậm chí chúng đề nghị những chuyện vẫn vơ. Chẳng hạn thầy nói "Ai thử hát bài Lòng mẹ nghe nào" thì có tiếng đề nghị ngay: " Thưa thầy chú Tâm Đức". Giọng chú Tâm Đức ồ ồ, mỗi lần cất tiếng đọc bài thì tưởng như trời sắp đổ cơn giông. Chúng thích nghịch các chú vì các chú hiền lành tha thứ. Cũng nhiều khi làm nũng nữa. Thằng Lương hay xin tiền chú Thiện Giáp. Nó kể lể những món nó thèm: ổi, me, chùm ruộc, cóc… và chìa tay xin chú một đồng. Chú mỉm cười lặng lẽ đưa bàn tay len lỏi vào khe áo nhật bình móc túi lấy cho. Gặp đứa học sinh nhỏ nghịch ngợm hay nói chuyện, nhiều khi thầy giáo phải cho dời chỗ xuống ngồi cạnh chú, hoặc giữa hai chú lớn. Sự có mặt của các chú làm lớp học ấm áp một tình thân yêu gia đình. Học sinh có cha ( thầy giáo), có chú, có anh chị em. Lớp học lại có mang thêm một không khí hoà bình thanh nhã.

Khai giảng niên khoá 1963-1964 nhằm giữa mùa Pháp nạn, nên có nhiều học sinh xin rút hồ sơ đi học trường khác. Đó là con em của một số công chức, binh sĩ. Họ không muốn vì con em học ở trường Bồ Đề mà bị chính quyền đổi đi miền nước độc hoặc bị giáng chức. Lớp học mang nhiều khoảng trống như một cơ thể mang những vết thương. Chỗ trống đó là chỗ ngồi cũ của Mai Văn Hiền, đen như một thỏi chì, của Lệ Châu thân mảnh như một con nai uyển chuyển, của Võ Quang Trí học giỏi và nghịch nhất lớp, của Trần Cạm bị ông giám thị bắt quả tang nằm trốn sau ngọn tháp để đọc tiểu thuyết kiếm hiệp. Vết thương của lớp vừa là vết thương nơi lòng của thầy giáo của học sinh còn lại. Vào những lúc này, mọi người mới cảm thấy thấm thía ý nghĩa của một câu nói bị lặp lại quá nhiều, nhiều đến nỗi gần như biến thành sáo ngữ: " Lớp học là một gia đình".

Tiếp theo sau, là những cuộc biểu tình đòi thực thi bản thông cáo chung, đòi thoả mãn 5 nguyện vọng, đòi trả lại nhục thân ni cô Diệu Quang Hoả Thiêu. Lớp học còn vắng bóng nhiều em học sinh nữa. Chúng theo người lớn xuống nằm ở ty công an. Ngày bố rác chùa chiền làm xúc động thành phố. Trường đóng cửa. Cây phượng trước sân trường chưa bao giờ phải chứng kiến một sự vắng lặng kéo dài dường đó. Ngày tôi đến đây cây phượng mới được trồng. Bây giờ gốc nó đã tràm một vòng tay của em nhỏ. Dãy cây dầu thân cao màu trắng mốc đu đưa những chùm lá mảnh, dài, nghiêng nghiêng. Thầy trụ trì ưu tư nhìn hàng cây mít chạy ven sân chùa. Thầy nhớ những lũ học trò hoang nghịch lén ngắt vú mít chấm muối ăn. Có lần lũ học trò ở lại buổi trưa đã lén hái cả trái mít vừa chín. Thầy bắt gặp, lắc đầu rồi cho luôn trái mít. Lũ chúng là con của người ta nhưng cũng là con tinh thần của thầy. Hoang nghịch là món quà trời ban cho tuổi thơ. Lứa tuổi vô tư mà thầy đã đẩy lùi vào dĩ vãng. Bốn mươi năm hơn rồi.

Ngày tháng trôi qua, mỗi lần đi xe ra khỏi thành phố là mắt tôi chạm phải ngôi trường đóng cửa im ỉm, Phật học viện nằm vắng lặng. Con đường bò vắt lưng núi không có người đi. Tôi không biết bao giờ mới có dịp đưa Trâm đi một vòng trên con đường vắt vẻo ấy. Thì chợt cuối tháng mười tôi chợt nghe tin Trâm bị nạn. Nàng đi thăm một người anh làm quận trưởng ở quận Hoà Vang và xe nàng bị phục kích. Nàng chết tại trận, còn người anh bị thương nặng. Linh cửu chở về Đà Nẵng.

Tôi không nhìn được thi thể nàng cũng không đến viếng được mộ. Thành ra ngồi gợi lại Trâm tôi chỉ thấy những nét đẹp của nàng. Đôi mày dài màu nhạt. Hàng mi cong. Môi hồng phơn phớt. Nếu phải nhìn thi thể dập nát của nàng, nhìn màu da xám xanh nhợt nhạt, tôi sẽ đau xót và bị ám ảnh đến mức nào nếu phải nhìn ngôi mộ của nàng tôi sẽ chán nản bi quan đến mức nào. Không, nàng đối với tôi suốt đời sẽ mãi mãi là cái dáng thiếu nữ mảnh mai ấy, đẹp đẽ và trong sạch như buổi gặp cuối cùng nàng ngồi Lambetta cạnh tôi.

Đầu tháng 11, nổ ra một cuộc đảo chính, chùa chiền và dân chúng được giải phóng. Khắp các nẻo phố, người ta đi tràn ra giữa đường, tự động biến thành biểu tình, những cuộc biểu tình thành thực đúng nghĩa của nó. Tuy vậy trường Bồ Đề vẫn đóng cửa vì ở giữa năm học. Tôi ghé thăm trường một chiều chủ nhật. Vắng vẻ. Mấy ngôi cổ tháp đứng giữa sân trường lặng lẽ suy tư. Những cây sao thân cao mọc ở ven chân núi thong thả để rơi những cánh hoa màu trắng xuống những bụi gai thấp. Nơi này, ngồi trong lớp thỉnh thoảng nhìn ra cửa sổ tôi thấy một con sóc thoăn thoát chuyền cành. Tôi theo con đường nằm vắt lưng núi qua Phật học viện. Đáng lẽ có Trâm đi cạnh tôi vào lúc này mới phải, tôi nghĩ. Một ngày đặt biệt như hôm nay không phải để cho tôi đi một mình. Mặt biển rộng trước kia, dãy Xóm Mới nằm ép trên mặt cát, xóm Cồn, xóm Bóng, Rộc rau muống, cầu Hà Ra… phải là nơi để đôi mắt nàng lướt qua đậu lại. Nàng phải xuýt xoa cạnh tôi " Ồ! Cảnh đẹp quá! "

Thế mà vụt nhiên nàng đã không còn nữa. Vô lý vậy sao? Từ sống sang chết có biên giới nào không? Bước qua ngưỡng cửa của cõi chết, nàng không đủ thời giờ để nhớ lại những nụ hoa ngọc lan, bà Ngoại, con đường nằm vắt ngang lưng núi, dự định đi thăm viện với tôi. Nàng không kịp nghe tiếng chuông chùa ngân xa, u trầm tịch mịch. Không kịp nhìn cây khế lưng đồi lặng lẽ trổ hoa. Nàng không kịp chung chia nỗi vui rộng lớn của những người tản mát trong các thôn xóm dưới kia, mừng thoát được tai nạn mà họ không thể nào lường trước được.

Con đường đất đỏ chạy lui dưới chân tôi. Đến Phật học viện. Những toà nhà nối tiếp các chú điệu với bước đi khoang thai. Những chậu hoa hồng, hoa huệ, những hòn non bộ, những hồ sen. Tôi lại đứng dưới gốc một cây hoa đại. Bên tai tôi, tôi mường tượng nghe giọng tôi nói:

"Cô sẽ nhìn những cây khế đứng ở lưng đồi…" và nàng nói lại:

"Chúng ta chọn một ngày chủ nhật nào và em nhờ anh hướng dẫn…".

Giọng nói ấm, trầm. Như có chứa ánh nắng trên đồng lúa chín màu vàng, như là hơi thở của những chùm hoa màu đỏ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 4363)
法住天寒極地空花如雪鎖禪扃生死遙程幾許夢回故里 雲行色没浮漚暮影凝烟参晚课唄吟長夜有時聲斷洪洲 Âm: Pháp Trụ thiên hàn cực địa, không hoa như tuyết tỏa thiền quynh, sinh tử diêu trình, kỷ hứa mộng hồi cố lý. Vân hành sắc một phù âu, mộ ảnh ngưng yên tham vãn khóa, bái ngâm trường dạ, hữu thời thanh đoạn hồng châu Ôn dịch nghĩa: Cực thiên Bắc, tuyết dồn lữ thứ, sắc không muôn dặm hoa vàng, heo hút đường về, non nước bốn nghìn năm soi nguồn đạo PHÁP Tận hồng châu, chuông lắng đồi thông, bào ảnh mấy trùng sương đẫm, mênh mông sóng cuộn, dòng đời quanh chín khúc rọi bóng phù VÂN
01/10/2012(Xem: 3745)
Trong thơ văn Phật giáo có hai câu thơ quen thuộc : Thấy nguyệt tròn thì kể tháng Nhìn hoa nở mới hay xuân. Các bạn trẻ hôm nay có thể nghĩ rằng đó chỉ là văn chương, là nói quá, thậm chí là nói không thật. Không phải vậy đâu. Thời nay của các bạn, gần như nhà nào cũng có tờ lịch treo tường, có xấp lịch gỡ từng ngày một. Hồi xưa thì không. Năm mươi năm trước, ở mỗi làng chỉ có chừng hai nhà mua được cuốn lịch Tàu, ghi ngày tháng âm lịch.
11/09/2012(Xem: 2585)
Mỗi khi đọc Lại-Tra-Hòa-La trong kinh Trung A Hàm 1 thì lúc nào tôi cũng liên tưởng đến nhân vật Siddharta trong tác phẩm Câu Chuyện Dòng Sông (do Phùng Khánh và Phùng Thăng dịch) của Hermann Hesse. Và tôi vẫn nghĩ rằng thế nào thì Hermann Hesse cũng có đọc Trung A Hàm, vì đọc tiểu sử của văn hào Đức từng đoạt giải Nobel Văn chương vào năm 1946
13/08/2012(Xem: 3585)
Năm nay, thời tiết tháng ba bỗng lạnh hơn những năm trước rất nhiều (hay tại mình già hơn năm trước mà cảm thấy thế?) Gió tháng ba này cũng lạ! chúng mang cái buốt giá căm căm của tháng ba miền Bắc Việt Nam, chứ không phải là gió xuân của Cali ấm áp Hoa Kỳ như thuở nào. Ai bảo đất trời tuần hoàn Xuân Hạ Thu Đông không có chợt nắng chợt mưa, như chúng sanh chợt cười, chợt khóc!
09/08/2012(Xem: 7290)
Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng
24/06/2012(Xem: 7717)
Bạch Xuân Phẻ là nhà thơ không xa lạ gì với nhiều người. Anh còn có biệt-hiệu là Tâm Thường Định. Thơ anh đã xuất-hiện trên nhiều trang mạng, trên báo-chí trong và ngoài nước. Anh đã cho ấn-hành bốn tập thơ “Hương Lòng”, “Mẹ, Cảm-Xúc Và Em”, “AWAKEN: Buddhism, Nature, and Life”, và “Tưởng Niệm và Tri Ân”.
23/05/2012(Xem: 2610)
Một vầng sáng giữa trời. Hoa đốm trên không chăng? Hay biểu tượng trầm mặc của người thơ? Là trăng. Trăng ư? Thiên cổ lại có trăng là Mẹ Mẹ của nhân gian trong cơn đại mộng li bì. Của muôn vạn con trăng nhảy múa giữa mắt người hôn trầm vạn tưởng. Mặt gương tròn lớn.
23/05/2012(Xem: 3776)
Bà già nhìn xuống dòng sông nước đục lờ, dõi theo một khúc gỗ đang trôi lững lờ theo con nước dập dềnh lên xuống đến khúc quanh ở cuối làng, nơi hai ống khói cao nghệu của nhà máy thả lên trời những cụm khói đen bay tản lạc trong gió chiều hoàng hôn. “Mới đó mà đã 20 năm, ông nhỉ?” bà nói mà không nhìn vào ông già ngồi cách mình một sải tay, trên phiến đá bám đầy rêu xung quanh hông.
22/05/2012(Xem: 2886)
Bây giờ, trong không gian yên tĩnh và nhỏ nhắn của ngôi nhà nơi ông và bà đã sống với nhau suốt 50 năm qua, chỉ còn lại hai người với nhau. Các con ông đã quay về với cuộc sống mưu sinh tất bật của chúng, để lại ông nằm trên giường với cơn bệnh hiểm nghèo đang chờ đến giai đoạn bộc phát cuối cùng, và bà, thanh nhã, khiêm nhường, ngồi lặng lẽ một bên, lắng nghe những hơi thở mỏi mòn đang đứt nhịp của ông. Bà chăm chú nhìn xuống khuôn mặt thân yêu quen thuộc đã ở bên cạnh bà suốt cả quãng thời gian dài dằng dặc của một kiếp người. Bầu không khí tĩnh lặng của mùa đông như chững lại với tiếng reo lanh canh của chiếc khánh treo ngoài lan can.
03/05/2012(Xem: 2782)
Bính âm (pinyin) hay Hán Ngữ Bính âm 漢語拼音/汉语拼音 (theo thứ tự phồn thể/giản thể) là một cụm danh từ mới xuất hiện từ thập niên 1950 - chính phủ TQ (Trung Quốc, Trung Hoa Lục Địa) cải tiến nhiều lần và gần đây cũng được Đài Loan chấp nhận (2009) tuy đã có hệ thống pinyin riêng (Thông Dụng Bính âm - xem thêm phần Phụ chú).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567