Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Mạc ngôn là Ẩn ngữ: Nobel Văn chương 2012

15/10/201202:22(Xem: 5243)
Mạc ngôn là Ẩn ngữ: Nobel Văn chương 2012


MẠC NGÔN LÀ ẨN NGỮ:
Nobel Văn chương 2012
Trầm Kiêm Đoàn


moyan-nobel_prizeSáng nay, 11-10-2012, đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (China Central Television’s – CCTV) thông báo tin nhà văn Mạc Ngôn (Mo Yan) đang sinh sống ở Bắc Kinh được giải thưởng Nobel Văn chương năm 2012 chỉ cách 10 phút sau khi Hàn Lâm Viện Thụy Điển thông báo tin trúng giải. Tiếp theo là báo chí toàn quốc Trung Hoa đã rộn ràng thi nhau không tiếc lời ca tụng “vinh dự nước nhà”.

Đây là lần thứ hai trong lịch sử 111 năm của giải văn chương Nobel với 108 người đã trúng giải, nhà văn Trung Quốc được giải. Thế nhưng dòng truyền thông văn học “chính thống” của Trung Quốc thì lại xem như lần đầucó một tác giả Trung Quốc trúng giải Văn chương Nobel. Mặc dầu năm 2000, nhà văn Trung Quốc đầu tiên được giải Nobel là Cao Hành Kiện (Gao Xingjian); nhưng Cao bị xem là người “ngoại đạo” vì sống ở phương Tây và có quốc tịch Pháp nên thông tin mấy ngày sau mới được loan ra một cách dè dặt... như thường lệ!

Mạc Ngôn tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm 1955 ở thị xã Cao Mật, tỉnh Sơn Đông thuộc vùng Đông Bắc Trung Quốc; lớn lên trong môi trường nông nghiệp, cha mẹ đều là nông dân. Mạc tốt nghiệp khoa văn của học viện Nghệ thuật Giải phóng Trung Quốc.

Tác phẩm Mạc Ngôn có 11 tiểu thuyết và khoảng 100 truyện ngắn, hầu hết lấy bối cảnh sáng tác và phát hành ở Trung Quốc. Một nửa tiểu thuyết và vài mươi truyện ngắn được dịch ra nhiều thứ tiếng là các tác phẩm: Hồng Cao Lương, Đàn Hương Hình, Cây Tỏi Nổi Giận, Rừng Xanh Lá Đỏ...

Dư luận văn giới phương Tây và ngay cả tạp chí Global Time tại Bắc Kinhđã đặt vấn đề là có chăng yếu tố chính trị toàn cầu đóng một vai trò nào đó trong việc trao giải thưởng văn chương cho Mạc Ngôn. Sự ám ảnh đó cho rằng, đây như một cử chỉ đưa cành cây Ô-liu ra hóa giải mối căng thẳng vẫn còn nguyên trong tâm lý của giới lãnh đạo Trung Quốc đối với hội đồng chấm giải Nobel khi nhân vật đối lập Lưu Hiểu Ba được trao giải Nobel Hòa bình năm 2010.

Mặc dầu đây đó vẫn có nhiều lời đồn đãi thị phi, tuy nhiên, phần đông các nhà bình luận quốc tế vẫn chân thành chúc mừng Mạc Ngôn. Như trường hợp giáo sư đại học Bắc Kinh, He Weifang nói rằng, ông lấy làm tiếc cho Mạc Ngôn vì nhà văn nầy từng tự tay viết ra một tham luận theo kiểu Stalinist mà Mao Trạch Đông đã đưa ra năm 1942 ra lệnh cho các nhà văn viết ca ngợi Đảng. Đồng thời, ông viết trong “blog” của mình rằng: “Giải Nobel văn chương năm 2012 trao cho Mạc Ngôn đã làm mất danh tiếng của giải văn chương lịch sử nầy. Đây có thể là trò... uốn éo giữa Hội đồng chấm giải Nobel và giới cầm quyền Trung Quốc.” Tuy nhiên giáo sư He Weifang vẫn cho là nhà văn Mạc Ngôn rất đáng được chúc mừng.

Tại Hồng Kông, báo South China Morning Postđã mỉa mai so sánh hai người Trung Quốc được giải thưởng Nobel... đều“câm miệng hến” (Shut Up). Nhà bất đồng chính kiến Lưu Hiểu Ba thì bị ra lệnh “Câm Miệng”; còn nhà văn Mạc Ngôn khi chọn bút hiệu nầy thì đã tự mình “câm miệng” (mạc ngôn: không nói) từ lâu lắm rồi!

Trên quan điểm văn học nghệ thuật thuần túy, thật không dễ gì thắp đuốc nhân gian soi rọi để thấy rõ khuôn mặt trung thực của một nhà văn. Chính trị đi vào đầu người bằng tiếng vang và búa gõ; văn chương đi vào lòng người bằng im lặng và âm thầm.

Nói như Phùng Quán, kẻ sáng tạo văn chương cũng ví như người xiếc đi dây. Tuy người xiếc đi dây thật khó, nhưng không khó bằng làm nhà văn. Có lẽ Phùng Quàn đã đi trên con đường sáng tạo đồng thời và đồng cảnh ngộ với Mạc Ngôn. Phùng Quán nói lên những thao thức, trăn trở của mình – một người cầm bút – từ những biểu tượng nhân sinh và thực tế bạo liệt qua Lời Mẹ Dặn. Mạc Ngôn tự chọn cho mình một thế nhìn và thế đứng nói mà không nói: mạc ngôn!“Mạc ngôn” trong văn hóa phương Đông không có nghĩa là “không nói gì cả” như giới văn bút phương Tây thường chuyển ngữ. Cần nhìn khái niệm “mạc ngôn” trên quan điểm văn hóa Phật giáo để thấy mạc ngôn là nguyên ngôn; mạc ngôn là ẩn ngữ. Đó là sự chiêm ngắm hiện thực cuộc đời qua tinh thần quán niệm. Có những lúc cần phải xếp chữ nghĩa, vùi thiên kinh vạn quyển qua một bên để tự chính mính nói cho mình nghe và suy niệm trong vắng lặng. Che mắt đời ra chợ giả ngu!

“Tác phẩm” đầu tiên giúp tôi biết đến Mạc Ngôn là khi lần đầu được xem cuốn phim Hồng Cao Lương (Red Sorghum) ở Century Theater tại Sacramento, một thành phố nhỏ vùng Bắc Mỹ. Đây là cuốn phim dàn dựng theo tác phẩm được đánh giá là tiêu biểu nhất trong số 11 tiểu thuyết của nhà văn Mạc Ngôn. Vì thích cuốn phim, tôi tìm đọc tác phẩm Hồng Cao Lương đã được Howard Goldblatt dịch ra tiếng Anh (Viking Penguin – New York, Penguin, 1994). Tôi tìm gặp một thế giới gần gũi với nông thôn ruộng đồng mà xa lạ như ảo ảnh. Một thế giới bơ phờ, hoang vu đầy những uẩn khúc tình dục, mê muội và bạo động vô nghĩa. Rõ ràng là tác giả muốn nói lên và chống lại một thế lực ám ảnh nặng nề đang đè nặng lên thân phận bèo bọt của con người cùng khổ. Các nhân vật lại hành động như những bóng ma ẩn hiện khi thật khi hư, khi say khi tỉnh. Đây rõ ràng là một thế giới của khuynh hướng “hiện thực ảo giác” (hallucinatory realism). Nó thật hơn cả thật nhưng cũng đầy ảo ảnh hơn cả ma trơi. Người đọc có cảm giác như Mạc Ngôn viết xong dăm câu, vài đoạn thì buông bút đứng cười, nói: “Tui là tui rứa đó. Dẫu bạn có cười hay khóc thì mặc bạn. Tui chỉ cười, có nói chi mô!”

Năm ngoái về thăm quê, tôi tìm được một tác phẩm của Mạc Ngôn với tên gọi rất chi là... hiện thực ảo giác: Ma Chiến Hữu(Trần Trung Hỷ dịch). Tác phẩm nói về cuộc chiến Trung-Việt năm 1979. Lúc đó, Mạc Ngôn là sĩ quan tuyên giáo của binh đoàn, nhưng tác giả lại không hò hét “cầm gươm ôm súng xông tới” mà chỉ nói khơi khơi chuyện người và ma rủ nhau lên những tàng cây uống rượu và nói chuyện lan man nóng lạnh đời thường. Sau lăng kính mạc ngôn– nói không lời; lời mà không nói – ấy, tác giả hướng về tầng lớp giai cấp nghèo khổ, quê mùa. Họ đi cày hay vác súng ra trận cũng như đi đào mương làm thủy lợi trong xã hội Trung Quốc thời nông trường tập thể. Tính nhân bản của một nhà văn có thể nhận ra khi biết trái tim của họ thể hiện trong sáng tạo thật sự hướng tới ai và đứng ở vị thế nào.

Có thể nói Cao Hành Kiện và Mạc Ngôn đều là hai tài năng văn chương sáng giá. Sáng giá không phải chờ đến khi nhận giải Nobel nhưng bởi sự dấn thân “xiếc đi dây” trong hành trình sáng tạo. Dù rằng một bên đứng ở đỉnh Linh Sơn khoảng khoát tinh thần trong một xã hôi phương Tây đầy bon chen, thực dụng và một bên dùng “mạc ngôn” hư hư thực thực để vật lộn với một xã hội xem giá trị tâm linh và tinh thần là biểu hiện của suy đồi, phù phiếm.

Dư luận phương Tây lao xao tiếng bấc tiếng chì khi giải Nobel văn chương năm nay về tay Mạc Ngôn, một phần vì nhà văn có chân trong đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng dư luận lại ít chú ý câu phát biểu chính thức đầu tiên của Mạc Ngôn ngay sau khi được giải văn chưong Nobel là yêu cầu trả tự do cho Lưu Hiểu Ba, nhân vật được giài Nobel Hòa Bình năm kia đã từng gây phẫn nộ cho giới cầm quyền Trung Quốc. Thái độ phản kháng bất công và áp bức trong phút đầu tiên bước lên đài danh vọng giữa lúc “quan trên ngó xuống, người ta trông vào” quả là sự hành xử thiên chức đáng quý của một nhà văn có bản lĩnh. Muốn cho phải có vật cho. Nhà văn muốn “phù thế giáo một vài câu thanh nghị” như Nguyễn Công Trứ nói về kẻ sĩ thì phải kiểng chân đứng ở tầm cao trên tác phẩm mới có người nghe tiếng.

Nhìn người lại nghĩ đến ta. Đâu mươi năm trước, từ quê người, tôi nghĩ về viễn ảnh một giải Nobel văn chương sẽ đến với người cầm bút ở quê nhà qua bài viết nay vẫn còn luân lưu trên các trang mạng: “Viễn ảnh về một giải văn chương cho giới văn bút Việt Nam”**.Có người cho là ảo tưởng vì trong điều kiện sáng tác “cái khó bó cái khôn” thì làm sao mà có được. Năm mươi năm trước, chú bé Mạc Nghiệp con nhà nông dân giữa một vùng quê nghèo đói Trung Hoa mà nói đến một chữ bẻ làm đôi cũng còn là ảo tưởng. Nhưng hôm nay, Mạc Nghiệp đã thành Mạc Ngôn.

Trong muôn một và im lặng, một người vô danh đang chúc mừng nhà văn Mạc Ngôn của Trung Quốc đã thành danh. Chúc mừng những nghệ sĩ văn bút Việt Nam đang trên đường sáng tạo.

Sacramento, tháng Mười 2012

Trần Kiêm Đoàn



**http://www.trankiemdoan.net/butluan/vanhoc-nghethuat/nobel4vn.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/10/2010(Xem: 13710)
Trải vách quế gió vàng hiu hắt, Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng, Oán chi những khách tiêu phòng, Mà xui phận bạc nằm trong má đào.
01/10/2010(Xem: 14426)
Có, không chỉ một mà thôi, Tử, sinh đợt sóng chuyển nhồi tạo ra. Trăng nay, trăng cũng đêm qua, Hoa cười năm mới cũng hoa năm rồi. Ba sinh, đuốc trước gió mồi, Tuần hoàn chín cõi, kiến ngồi cối xay. Tới nơi cứu cánh sao đây ? Siêu nhiên tuệ giác, vẹn đầy “Sa ha” (Thích Tâm Châu dịch )
01/10/2010(Xem: 5101)
Là con người, ai cũng có đủ tính tốt và xấu, nên thực tế rất khó nhận định về tính cách của chính mình, của một người khác, huống chi là nói về tính cách của cả một dân tộc. Tuy vấn đề phức tạp và đôi khi mâu thuẫn, nhưng tôi cũng xin cố gắng đưa ra một số nét tiêu biểu của người Nhật.
28/09/2010(Xem: 7300)
Bao gồm nhiều ngạn ngữ dân gian phản ánh đời sống tâm lý của người dân TQ trong xã hội xưa, “ Tăng quảng hiền văn” là sự thể hiện tư tưởng của Nho Giáo, Đạo Giáo, Lão Giáo, mang tính triết lý cao. 1 Tích thì hiền văn, hối nhữ truân truân, tập vận tăng quảng, đa kiến đa văn. Lời hay thuở trước, răn dạy chúng ta, theo vần cóp nhặt, hiểu biết rộng ra. 2 Quan kim nghi giám cổ, vô cổ bất thành kim. Xem nay nên xét xa xưa, ngày xưa chẳng có thì giờ có đâu. 3 Tri kỷ tri bỉ , tương tâm tỷ tâm. Biết mình phải biết người ta, đem lòng mình để suy ra lòng người. 4 Tửu phùng tri kỷ ẩm, thi hướng hội nhân ngâm. Gặp người tri kỷ ta nâng cốc, thơ chỉ bình ngâm mới bạn hiền. 5 Tương thức mãn thiên hạ, tri tâm năng kỷ nhân. Đầy trong thiên hạ người quen biết, tri kỷ cùng ta được mấy người. 6 Tương phùng hảo tự sơ tương thức, đáo lão chung vô oán hận tâm. Gặp lại vui như ngày mới biết, chẳng chút ăn năn trọn tới già.
27/09/2010(Xem: 4226)
Có người không hiểu Phật, than Phật giáo tiêu cực, nói toàn chuyện không vui. Từ đó Tăng ni chỉ được nhớ tới trong những ngày buồn như đám tang, cúng thất, cầu an cho người sắp đi. Rồi thì người ta còn đi xa hơn, xuống thấp hơn một tí, là khi nói đến Tăng ni là họ tưởng ngay đến những người mất sạch, một cọng tóc cũng không có. Thậm chí họ cho mình cái quyền châm chọc khiếm nhã khi nhìn thấy Tăng ni đâu đó. Một chuyện mà có uống mật gấu họ cũng không dám làm đối với những người thế tục cạo trọc.
06/09/2010(Xem: 11490)
Văn Tế Thiên Thái Trí Giả Tác giả Đại Sư Tuân Thức Việt dịch: Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm *** 1. Nhất tâm đảnh lễ Thiên Thai Trí Giả trong núi Đại Tô tu Tam Muội Pháp Hoa Tâm tâm tịnh thường lại qua pháp giới Như mặt nhật trên không chẳng trụ không Ba ngàn thật tướng tức khắc viên thông Tám vạn trần lao đều đồng chân tịnh. Xưa hội kiến Linh Sơn còn hoài niệm Nay toàn thân bảo tháp thấy rõ ràng Nếu chẳng cùng sư Nam Nhạc tương phùng Ai biết được tướng thâm sâu thiền định?
01/09/2010(Xem: 3305)
Vườn hoa Phật Giáo mênh mông, với nhiều sắc thái thành muôn màu rực rỡ. Mỗi đóa hoa đều có sắc có hương, để thành vẻ đẹp đặc thù của Phật Giáo. Chúng ta thấy đại dương rào rạt bao la không bờ bến, nhưng giọt nước nào cũng mang vị mặn của muối. Chánh Pháp của Đức Như Lai vô lượng vô biên, nhưng pháp nào cũng đều mang hương vị của giải thoát.Mỗi Vị Tôn Đức hoằng pháp đều có một phong cách riêng, có những tư tưởng nhận định riêng. Vị nào còn trẻ khoẻ thì thích đi hoằng pháp các nơi.
28/08/2010(Xem: 2951)
Du Hôn (truyện ngắn của Nhật Hưng)
27/08/2010(Xem: 3348)
Tuy không phải là bạn thân nhưng tôi quen biết anh ấy từ lâu, thời còn ở trung tiểu học. Anh ấy thuộc một gia đình khá giả, bố mất sớm, thông minh học giỏi. Ra trường, làm việc cho một công ty lớn, được cấp nhà ở, và ai cũng có thể thấy ngay anh là một người thành đạt, có một tương lai xán lạn và là niềm hãnh diện cho gia đình. Nhưng…những chữ nhưng thường làm dang dở cuộc đời. Có nhiều chuyện thật oái oăm và không thể lường trước được có thể xảy ra làm thay đổi một cuộc đời. Và những chuyện không ngờ đó một hôm đã xảy ra, đã đưa anh vào cảnh tù tội một cách oan ức.
17/08/2010(Xem: 13821)
Lâu nay tôi thường cùng các thi văn hữu trao đổi với nhau những bài thơ, câu đối như là một thú vui tao nhã. Về thơ thì tôi vừa mới tập hợp thành tác phẩm Mưa Hè (nhà xuất bản Hồng Đức - quý hạ 2013). Riêng về câu đối, với tính chất riêng của nó, tôi tập hợp thành tập Thiền Lâm Ứng Đối hợp tuyển này, bao gồm một số câu đối trước đây đã được in và phát hành dưới dạng “Lưu hành nội bộ”, và một số câu đối đã được làm trong thời gian sau này. Những câu đối trong tập cũ in lại có hiệu đính, phần nhiều ở câu dịch nghĩa. Đa số những câu đối có nhân duyên từ các chùa trong tỉnh, ngoại tỉnh và một số chùa ở nước ngoài nhờ làm để trang trí. có câu còn ghi chú rõ, có câu tôi không còn nhớ làm cho chùa nào, ở đâu. Kính xin chư Tôn đức cùng quí chùa hoan hỉ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]