Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đối Thoại Hoà Bình Của Nhà Thơ Tuệ Đàm Tử

09/08/201206:47(Xem: 7384)
Đối Thoại Hoà Bình Của Nhà Thơ Tuệ Đàm Tử

 bocauhoabinh_1


Viết về Trường Ca

Đối Thoại Hoà Bình

(tức Thông Điệp Hòa Bình)

Của Nhà Thơ Tuệ Đàm Tử

 

                                                                                                LÊ ĐÌNH CAI

 

       Âm vang của tiếng vọng “Hòa Bình” là niềm khao khát của nhân loại nói chung và của từng dân tộc nói riêng. Thế kỷ 20 với hai cuộc thế chiến hãi hùng đã đẩy đưa nhân loại xuống vực thẳm của điêu linh và chết chóc. Chiến tranh đồng nghĩa với tàn phá và hủy diệt, và cũng chính trong đêm đen tột cùng của chiến tranh, tiếng vọng “Hoà Bình” đã vang lên để thức tỉnh lòng người. Hòa bình đồng nghĩa với cọng tồn và an lạc, là niềm ước ao của mọi tâm hồn hướng thiện. Chiến tranh xuất phát từ tham, sân, si, thì hòa bình phải khởi đi từ lòng nhân ái và lửa Từ Bi. Đó là ý niệm bàng bạc trong toàn bản trường ca thi phẩm của Tuệ Đàm Tử, tức Hòa Thượng Thích Giác Lượng .

 

      Trong tập biên khảo của tôi về “30 năm cầm quyền của Chúa Nguyễn Phúc Chu 1691 – 1725” do đại học Văn Khoa Huế xuất bản vào năm 1971, tôi có một chương nói về nhà Sư Thích Đại Sán, sư Hải Hương Thiền Sư và Liễu Quán Hòa Thượng…. Tôi chú trọng đến các nhà sư đó vì lẽ khi đất nước qua phân, nhân tâm ly tán thì họ đã quyết định nhập cuộc với chúng sinh để cùng tìm về bến giác, đẩy đưa xã hội đến bờ an lạc. Cách xử thế của các nhà sư đó đã được sử sách ghi nhớ. Hình ảnh nhập cuộc của Hòa Thượng Thích Giác Lượng trong các phong trào đòi nhân quyền và tự do tín ngưỡng ở hải ngoại có cái gì đó gần gũi với các hình ảnh của các vị sư thời Trịnh Nguyễn phân tranh. Điều nầy đã tác động trong cách nghĩ của tôi về sự dấn thân của một vị tu hành đáng kính phục. Tôi đã nghe nhiều bài giảng của Hòa Thượng, tôi đã đọc nhiều bài báo của Hòa Thượng viết trên các báo chí hải ngoại và giờ đây với tập trường ca “Đối thoại Hòa bình” dù được hình thành cuối thập niên 1960, nhưng xét theo hoàn cảnh của đất nước hiện nay, dưới sự cai trị của một chế độ phi nhân bản, khát vọng về một quê hương thanh bình và an lạc vẫn còn nóng bỏng trong trái tim của mọi người dân Việt chúng ta dù trên quê hương khốn khổ hay lạc loài nơi hải ngoại.

 

 

       Tôi không chú trọng nhiều đến kỷ thuật, âm điệu trong bản trường ca của nhà thơ Tuệ Đàm Tử, phần đó dành cho các nhà phê bình văn học, nếu tác phẩm trụ vững được với thời gian. Tôi chú trọng nhiều đến phần tư tưởng chủ đạo của tác phẩm. Về góc cạnh nầy, trường ca “Đối Thoại Hòa Bình” là nhân chứng của một giai đoạn lịch sử với hậu quả thật khốc liệt.

        Hơn hai triệu người phải rời bỏ Tổ quốc ra đi, hơn một triệu người phải bước vào ngục tù tăm tối của chế độ cộng sản.

       Tìm cho ra nguyên ủy của thực trạng đau thương đó, nhà thơ Tuệ Đàm Tử đã xót xa lên tiếng:

 

                              Lửa súng đạn đã diệt tiêu nhân loại.

Do lửa tham trong tâm vọng con người

                             Sự điêu tàn khốc liệt khắp cùng nơi

                             Do gốc bởi sân si, mê muội trí !

                                              (Đối thoại Hòa bình)

 

        Tiếng gọi đoàn kết mà nhà thơ đã muốn được vang vọng vào thời đất nước còn chiến tranh Quốc Cộng, bây giờ vẫn còn nguyên tác dụng của nó:

 

                            Dân nước Việt Nam ta cần kết khối.

  Thuận hòa nhau tranh đấu chống bạo tàn.

                           Gương anh hùng đất Việt đã danh vang

                            Lịch sử ấy muôn ngàn đời bất diệt.

 

        Ngay vào những thập niên 1960 nhà thơ đã thấy rõ được vai trò của mình là cần thiết phải nhập cuộc để cứu độ nhân sinh. Tuệ Đàm Tử bấy giờ chỉ là một Đại Đức, vẫn một lòng tâm nguyện:

 

Người hành đạo đương thời không ủy mị

                            Không bi quan, không yếm thế với đời

                            Không yếu hèn lúc nhân loại chơi vơi

                            Không lấp mắt khi nước nhà nguy biến

 

Chính người tu đã thực hành chí nguyện

                            Đem tinh thần đạo đức giúp nhân sinh

                            Là phương châm mang lại sự hòa bình

                            Là sứ mạng muôn đời non nước Việt….

                                                (Đối Thoại Hòa Bình)

 

        Quan niệm dấn thân đó, gần bốn mươi lăm năm sau vẫn là kim chỉ nam soi tỏ đường đi của Hòa Thượng Thích Giác Lượng trên miền đất thuộc hải ngoại nầy. Tiếng nói của Thầy vang lên trong các phong trào đòi quyền sống cho con người, đòi quyền tự do tín ngưỡng cho hơn 80 triệu người dân Việt đang sống trong bạo lực và tù đày.

        Một nhà tu hành, một con  người dấn thân không ràng buộc bởi tham vọng chính trị nào. Với trường ca “Đối Thoại Hòa Bình” nay là Thông Điệp Hòa Bình, thật xứng đáng được đón nhận một cách trân trọng.

 

 

                                Lê Đình Cai

                                                      (nguyên Giáo sư Đại học Huế và Đại học Đà Lạt)

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/03/2013(Xem: 6570)
Ðây là hình ảnh Thượng Tọa Tuệ Sỹ, thế danh Phạm Văn Thương, sinh năm 1943, xuất gia tiểu đồng khi còn cư ngụ bên Lào. Thầy là một trí thức Phật giáo mà tâm thức và hành sử hướng về Dân tộc và Ðạo pháp ...
27/03/2013(Xem: 4647)
Có những cánh tay già nua đưa ra giữa chợ Chờ đợi những đồng tiền từ những thương hại rớt rơi Những ánh mắt thâm u, không thấy một nét cười Đời vô vọng, nên người không hy vọng ...
05/03/2013(Xem: 4939)
Điểm đặc biệt của dân tộc ta là suốt từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau, từ xưa đến nay, người Kinh đều nói một thứ tiếng và tất cả các dân tộc thiểu số, ngoài tiếng nói riêng của dân tộc mình, họ cũng nói rành tiếng Việt. Hơn thế, trên toàn quốc, người Việt Nam đều dùng một thứ chữ viết. Tuy nhiên, nước ta trải dài qua nhiều vĩ tuyến, điểm cực bắc thuộc xã Lũng Cú huyện Đồng Văn tỉnh Hà Giang ở 23º 23' phút Bắc vĩ tuyến, điểm cực nam (không tính hải đảo) là mũi Cà Mau ở 8º 30' Bắc vĩ tuyến
14/02/2013(Xem: 6931)
Khi tiếp cận với Kim Cang, tôi bỡ ngỡ và chưng hửng không ít. Lâu nay cứ nghe người ta đọc câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” như một câu thần chú để quên đi bao nội muộn phiền, rồi đọc Lục tổ Huệ Năng cũng thấy ngài kể chuyện một hôm đi bán củi, chỉ nghe lóm người ta đọc có câu kinh đó thôi mà đại ngộ, thế mà mình càng nghe càng mơ hồ, mù tịt.
13/02/2013(Xem: 3384)
hoa_ly_1Thầy không chỉ là thầy học của tôi, thầy còn dạy cả cậu mợ tôi học ở bậc Trung học. Thầy dạy môn Sinh vật từ năm lớp Sáu. Nhìn cung cách thầy trình bày dạy, tôi nghĩ rằng thầy chọn dạy môn này là do tấm lòng thầy yêu sinh vật quanh mình, thầy thưởng
11/02/2013(Xem: 3721)
cha Ðã đến lúc cha viết những lời sám hối chân thành gởi đến con. chắc con rất ngạc nhiên. Con dang xót xa vì cha cô đơn, ân hận vì không được gần cha đề săn sóc tuổi già, cũng có thể tưởng tượng cha đang nhẹ nhàng trách con... Vậy mà làm sao nghe có sự ngược đời. Con hãy nghe cha nói.
11/02/2013(Xem: 3792)
Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn : - Không được kêu là : "Ông thầy chùa" nghe chưa ? Hỗn. Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì ba tôi dùng ba chữ "Thầy Châu Lâm". Giọng kính cẩn có pha chút thân tình, Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
08/02/2013(Xem: 9074)
Nhân một hôm đến tại tư thất thăm cụ Ngô Trọng Anh, Giác Lượng đọc được bài thơ của Cụ Hoàng Văn Minh, tức nhà thơ Điền Viên, đăng trên Đặc San của Hội Người Việt Cao Niên, vùng Hoa Thịnh Đốn Xuân Kỷ Sửu (2009). Với tựa đề: NƯỚC NON
04/02/2013(Xem: 8478)
Không được gọi là nhà thơ nhưng rất nhiều người VN vẫn có thể làm thơ. Thơ phổ biến khắp nơi với đủ loại người. Thơ không đọc bình thường như văn mà ngâm lên du dương trầm bổng, lại thêm các loại đàn sáo, tranh, bầu... sau thêm đàn nguyệt phụ họa nên ngâm thơ là một loại hình nghệ thuật cổ truyền, thuần túy VN. Ai cũng có thể đọc thơ một cách diễn cảm nhưng để ngâm thì phải biết cách. Bồng mạc, sa mạc, lẩy Kiều... Để nắm những cách thức ấy phải là người chuyên môn, thường xuyên luyện giọng chứ không phải tự nhiên ai cũng ngâm được.
27/01/2013(Xem: 2575)
Cảm nhận nguồn sông trăng, Cảm ơn tác giả: Nữ sĩ Tuệ Nga đã gởi tặng tập thơ “Từ Giòng Sông Trăng” do Cội Nguồn xuất bản vào giữa năm 2005, sách dày 400 trang giấy thắm, chuyên chở ý thơ như giòng suối tràn tuôn từ dòng tư tưởng ảnh hiện bóng trăng, soi qua cuộc đời trong sáng, với những giòng sông mênh mông tràn về biển cả. “Từ giòng Sông Trăng” chẳng những một đề tài đơn độc của tập thơ nầy để diễn tả sự mầu nhiệm của trăng mà chúng ta không thể dùng lời nói hết. Riêng Nữ sĩ Tuệ Nga có cái biệt tài đưa trăng vào thơ một cách tự nhiên không hề gượng ép. Mỗi chữ trăng là mỗi vần thơ. Mỗi dòng hạ bút là thơ trăng huyền.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567