Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ Đạo Phật nghĩ về cuộc đối thoại giữa các nền Văn Hóa

28/02/201206:13(Xem: 3110)
Từ Đạo Phật nghĩ về cuộc đối thoại giữa các nền Văn Hóa


duc-phat-1111

TỪ ĐẠO PHẬT NGHĨ VỀ CUỘC ĐỐI THOẠI

GIỮA CÁC NỀN VĂN HÓA
Thái Nam Thắng

Kể từ khi khái niệm "toàn cầu hóa" ra đời, thế giới đã chuyển sự chú ý vào văn hoá. Và chỉ trong một thời gian ngắn, văn hóa truyền thống đã trở thành nền tảng cho mọi sự phát triển bền vững, toàn diện, trong khi trước đó không xa, người ta chỉ xem nó như một nét viền mờ nhạt của kinh tế.

Lẽ ra thế giới phải nhận thức về vai trò quan trọng của văn hoá truyền thống từ lâu rồi mới phải. Nhưng vì sao lại có sự chậm trễ này?

Câu trả lời có lẽ không gì khác hơn ngoài sự trả giá của nhiều nền văn hoá, văn minh. Đã có không ít dân tộc "mất tên" trên bản đồ văn hoá thế giới, hoặc thảng thốt nhận ra mình chỉ còn là một nền hoá nghèo nàn, lệ thuộc, thiếu bản sắc... Nếu trong lúc này, chúng ta nói người Việt Nam đang có xu hướng ấy thì rất có thể sẽ bị cho là rơi vào chủ nghĩa bi quan. Tuy nhiên, cái vươn vai thức dậy của kinh tế Việt Nam trong hơn một thập kỷ nay và những tác động tiêu cực đi theo nó không khỏi khiến người ta phải suy tư thêm về khái niệm "phát triển bền vững".

Song song với xu thế toàn cầu hóa là những cuộc đối thoại giữa các nền văn hóa, văn minh. Khái niệm "đụng đầu" được thay bằng khái niệm "giao lưu, hội nhập", và người ta tuy đã có thể ngồi lại với nhau nhưng nói cho "vừa lòng nhau" là một điều đáng suy nghĩ. Vấn đề không còn nằm ở nội dung nói mà là ở cách nói, cho nên cái "vừa lòng nhau" ấy càng nói càng xa mục đích ban đầu mà nó muốn nói, mục đích đối thoại. Chúng ta cần ý thức rằng, một nền tảng văn hoá thế giới không thể xây dựng trên tư tưởng gây tội rồi xin lỗi, phá huỷ rồi xây dựng, âm mưu giết hại rồi gửi lời chia buồn, hay xí xóa cho xong chuyện...

Người Việt Nam không nên nhớ qúa khứ của mình bằng hận thù, song cũng không thể quên đi quá khứ của mình bằng những đồng tiền viện trợ hay những cái lợi trước mắt. Vì sao? Vì quá khứ đau thương của dân tộc phải trở thành một bài học sâu sắc về lòng khoan dung và tinh thần độc lập tự chủ. Từ hiện tại, nghĩ về tương lai và đối xử công bằng với quá khứ đó là cách mà chúng ta nên sống. Sống không phải chỉ nhằm vào mục đích "làm ăn" mà còn vượt qua những nghi kỵ và thù hằn, để nói tiếng mẹ đẻ một cách thân thương, để ghi tâm khắc cốt bài ca dao: "Khôn ngoan đối đáp người ngoài, Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau"...

Trong lúc nền văn hóa, văn minh của thế giới đang chuyển dần sang thế đối thoại, chúng ta phải nói như thế nào? Và đối thoại có phải chỉ đơn thuần là nói hay không?

Hiển nhiên, đối thoại không hẳn chỉ là nói, bởi các cụ ta từng dạy: "nói là bạc...". Đối thoại còn nằm ở cách chúng ta ăn, mặc, ở, ứng xử... bằng nội lực văn hóa của chính mình. Vậy chúng ta đã ăn, mặc, ở và ứng xử như thế nào? Đối thoại về văn hóa có phải chỉ để "làm ăn" với nhau, để sinh ra cái gọi là "lợi ích vật chất"? Mục đích của đối thoại văn hóa phải cao hơn cái nhu cầu "hầu bao" đó, có như vậy, chúng ta mới có tinh thần minh mẫn để hiểu mình, để tôn trọng lịch sử và sự thật, bằng không chúng ta đã vô tình đưa diễn đàn đối thoại văn hóa cho "những khổng lồ kinh tế" làm chủ. Vấn đề là cho dù hội nhập nào, đối thoại nào cũng cần có thời gian để nghỉ, nghỉ để nhìn lại mình, để ăn, mặc, ở, để quây quần bên nhau quanh chiếc mâm tròn, để hát lên những bài hát ru của mẹ, để gieo vào trong tâm những niệm yêu thương, niệm hiểu biết,..., để sau một giấc ngủ, tỉnh dậy rồi, chúng ta còn biết ngôi nhà của mình vẫn còn nguyên vẹn.

Khi xưa, "con đường tơ lụa" là bước giao thương, giao lưu đầu tiên về văn hóa và kinh tế giữa châu Âu và châu Á. Lúc đó, "con đường tơ lụa" đẹp như chính tên gọi của nó. Cả châu Âu đứng lặng trầm trồ nhìn ngắm và thấy được đằng sau nó là cả một thế giới tâm linh sâu lắng hiền hoà của không ít các dân tộc được sinh ra và được sống trong câu niệm Phật... Và những dân tộc ấy đã đến với phương Tây bằng lụa chứ không phải bằng súng đạn, bạo lực. Cái tinh xảo, khéo léo, hiền hoà không bao giờ làm cho người ta sợ hãi. Thế nên, sự gặp gỡ giữa những cái đẹp của hai phương trời diễn ra như một tất yếu, không cái nào tổn hại cái nào, trong chừng mực của lòng tôn trọng và hiểu biết.

Cũng trong bối cảnh đó, ông cha ta thật tinh tường khi sáng tạo ra thần thoại, cổ tích với một thông điệp lo âu về "cái đẹp bị đánh cắp". Càng giao lưu, càng gần nhau, người ta càng nảy sinh sự so sánh hơn kém, mà ở đâu có so sánh ở đó có chọn lựa. Điều đáng nói là sau khi nhìn ngắm rồi, người ta bắt đầu nhòm ngó, và cũng trong lúc ấy, cái đẹp đã bị "đánh cắp" theo cách riêng của mỗi người. Càng có nhiều người "đánh cắp" thì càng tạo ra nhiều sự cạnh tranh, chia, nhượng, thậm chí là giành giật. Cuối cùng để thoả mãn với nhau người ta buộc phải chia nhỏ cái đẹp ra, và ngay lập tức, cái đẹp bị chà đạp. Vậy ra, mục đích cuối cùng của những bộ óc xâm lăng ấy không phải vì bấy lâu họ qúa thiếu thốn cái đẹp mà vì họ không thoả mãn được cái lợi.

Nhưng nói gì thì nói, cách thức "đánh cắp" mới là vấn đề mà chúng ta cần phải đối thoại với nhau một cách thẳng thắn. Người phương Đông vui vẻ nói với nhau rằng rác là hoa, hoa là rác để tìm cách ứng xử đẹp với cuộc đời. Cụ Nguyễn Du nói: "Hoa tàn rồi lại thêm tươi". Chỉ một câu tin yêu ấy, người ta có thể khóc lên vì sung sướng, sung sướng cho nhiều thế kỷ dân tộc đã sống dậy từ trong đau khổ, thù hận, từ rác, từ bùn, từ tủi nhục,... như thế. Nhưng cho dù sống dậy từ cái gì đi chăng nữa nó cũng phải tươi, phải đẹp, phải khoan dung độ lượng... Vì sao? Vì Bụt bảo khổ đau tương quan với hạnh phúc. Mỗi khi thấy người hiền gặp nạn, Bụt hiện ra và hỏi: "Tại sao con khóc?". Cả dân tộc đã suy nghĩ, lắng nghe cơn gió vô thường ùa về, và nhìn những hận thù tan đi... Cho đến khi tiếng vó ngựa xâm lăng lại hý lên. Bụt lại hiện ra: "Con đừng khóc nữa mà hãy nhìn vào cơn giận của chính mình". Nhưng mọi người không thể không khóc. Và chắc chắn Bụt sẽ bảo: "Con hãy khóc đi, khóc xong rồi con sẽ cảm nhận được thế nào là hạnh phúc, biết khóc là một hạnh phúc, khổ đau là một hạnh phúc, và nếu chưa khổ đau các con hãy khổ đau đi". Và cụ Nguyễn Du lại từ trong tâm thức của Bụt mà nói: "Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa"...

Chúng tôi muốn nói đến Việt Nam như nói đến một cái đẹp thường xuyên bị vùi dập. Một nghìn năm bị vùi dập, một trăm năm bị vùi dập. Bởi thế, chưa lúc nào dân tộc ngừng thao thức: "Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về?". Về đâu? Phải trở về quê hương tâm linh để nhận ra minh châu còn ở trong lòng, có như vậy, cái vô giá nhất ấy mới không bị đánh mất. Chỉ có thế mới giữ lòng thuỷ chung với dân tộc, với cái đẹp, và chỉ có thế "Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài". Hậu thế góp nhặt điều "dông dài" của cụ Nguyễn Du để nói lên điều mình muốn nói. Việt Nam như một "anh nhà quê với cái đầu luôn luôn phải đội nặng", đội nặng một nghìn năm, đội nặng một trăm năm... Vâng đúng như vậy, chúng tôi nói là đội nặng chứ không phải cúi đầu. Bởi Đức Phật đã nói rằng, chúng sinh đều bình đẳng..., Phật không "dỗ nín" ai mà Phật chỉ dùng nhân quả để cân đo thiện-ác.

Hội nhập kinh tế và văn hoá là một tất yếu trong thế giới mà mọi trật tự chỉ là tương đối. Thế nên, trong vô vàn các điều kiện để hội nhập, sự điều chỉnh mình tất yếu phải diễn ra và không phải cái gì cũng khách quan, công bằng...

Hai nghìn năm về trước, Trung Hoa đã tiến hành chiến tranh xâm lược và áp đặt văn hóa lên dân tộc Việt. Một nghìn năm sống trong ách đô hộ, người Việt buộc phải dùng chữ Hán để bổ sung cho cái khuyết điểm mang tính lịch sử của mình, đó là "không văn tự". Nhưng cũng lúc ấy, đạo Phật hiện diện trên quê hương Việt Nam, người Việt đón chờ đạo Phật như đón chờ một người thân xa quê trở về. Người Việt đã tiếp nhận đạo Phật, và cả dân tộc Việt đã gọi Phật là Bụt bằng tiếng mẹ đẻ thiêng liêng của mình. Chúng tôi dùng từ tiếp nhận bởi đó là hệ luận của một cuộc vận động ý thức hệ tư tưởng quan trọng nhằm đối kháng với Trung Hoa.

Kể từ buổi bình minh của dân tộc, đạo Phật đã cùng với dân tộc đội chung khối nặng ấy, và tiếng nói trong trẻo của dân tộc vẫn không ngừng cất lên ngay cả lúc khổ đau nhất. Như một tất yếu, những tranh luận xảy ra trên bình diện ý thức hệ của đạo Phật đã nhóm lên cho dân tộc Việt một hướng đi mới. Và suốt một nghìn năm cùng nói chung một thứ tiếng, đạo Phật đã đi vào cổ tích, huyền thoại của dân tộc Việt, để khi lần đầu tiên dân tộc lấy lại được quyền độc lập tự chủ, chùa Khai Quốc (Mở Nước) xuất hiện, cũng là lúc cả dân tộc xác nhận vị trí, vai trò của đạo Phật trong trái tim mình. "Trời còn để có hôm nay, Vén sương đầu ngõ tan mây giữa trời"(Truyện Kiều), và bài tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc vang lên xua tan giấc mộng xâm lăng của phương Bắc. Kế đến, sự hưng thịnh của dân tộc và đạo Phật thời Lý - Trần đã mở ra một thời kỳ thanh bình, thuần từ, khoan dung nhất trong lịch sử dân tộc.

Trong kỷ thuộc Minh, đạo Phật vẫn gìn giữ mạch chảy tâm linh của dân tộc. Chính vì thế, lý luận Nho giáo đến từ phương Bắc buộc phải vận động cho một cuộc cải cách mang dấu ấn Việt để tồn tại. Càng mang dấu ấn Việt bao nhiêu thì khuynh hướng "cư Nho mộ Thích" càng diễn ra nhanh chóng bấy nhiêu. Không ít những nhà văn hóa tư tưởng, thậm chí những người có thái độ bài xích đạo Phật đã dẹp đi mọi niềm nhân ngã để trở về quy ngưỡng với đạo Phật, yêu kính Phật và niệm Phật. Đều đặn như thế, 108 tiếng chuông chùa vẫn hàng ngày ngân rung trên làng quê Việt Nam, không ngừng đánh thức hồn dân tộc.

Sau kỷ thuộc Minh, sự đô hộ đáng kể nhất của ngoại bang chính là cuộc xâm lăng của thực dân Pháp; cuộc xâm lăng này đã đẩy dân tộc vào giai đoạn khó khăn nhất trong lịch sử. Một thách thức mang tính sống còn khi tiếng súng đại bác và lòng hận thù vung vãi trên quê hương Việt Nam. Lúc ấy, hoạ mi có thể tắt tiếng nhưng câu niệm Phật và tiếng chuông chùa vẫn đều đặn ngân lên, nức nở ngân lên: "Trần kiếp vì đâu oan khổ?"...

Trong các cuộc xâm lăng, vẫn chỉ có thế, cái đẹp luôn luôn bị nhòm ngó và chiếm đoạt. 100 năm mà đau hơn cả nghìn năm, người Việt lang thang đi tìm mẹ Âu Cơ của bốn nghìn năm để không trở thành đứa trẻ mồ côi.

Sau những cuộc đối đầu cực đoan của chính sách "sát tả", triều đình ngày càng trở nên bất lực trước thế mạnh quân sự của thực dân Pháp, Nho giáo tàn lụi theo, lô cốt đi đến đâu thì nhà thờ mọc lên đến đó, và khi đại diện cao nhất của triều đình bán nước nhà Nguyễn chịu phép rửa tội thì cũng là lúc những người Việt Nam thiết tha với dân tộc cảm thấy mình có tội, không phải là "tội tổ tông" mà là tội với anh linh dân tộc.

Người Pháp vui mừng vì Nho giáo không đánh cũng tan, vậy điều gì còn lại khiến họ lo lắng? Ở phạm vi quân sự, các cuộc khởi nghĩa nhỏ lẻ chưa đủ để người Pháp lo lắng, bởi lúc đó họ đã có tay sai đắc lực là triều đình đối phó. Người Pháp tuy mới đến Việt Nam nhưng cũng hiểu sâu sắc thế nào là câu "mỡ nó dán nó", ngon lắm. Có không ít người Việt cũng thấy ngon khi ăn thứ mỡ ấy, nhưng ăn mỡ nhiều thì rất dễ bị tắc tiếng.

Vì sống quen với "nhạc trời" nên điều mà người Pháp cảm thấy khó chịu, bất an nhất có lẽ không gì ngoài tiếng chuông chùa và câu niệm Phật, cứ thế, như cỏ mọc, dai dẳng và bất trị. Vì thế, không phải ngẫu nhiên, chùa chiền lại trở thành nơi lý tưởng để xây cất nhà thờ. Đau xót biết bao, những ngôi chùa đã nghìn năm sống trong tâm thức dân tộc bị tàn phá không thương tiếc, điều mà Nho giáo khi xưa dù có cực đoan đến đâu cũng không bao giờ đối xử với đạo Phật như thế. Nhưng cũng chính trong cơn vô thường ấy, đạo Phật đã hóa thân vào cuộc sống. Phong trào duy tân của hai nhà trí sĩ họ Phan như một luồng gió mới thổi vào tinh thần yêu nước của toàn dân tộc. Các cụ đã thống thiết kêu gọi "bài Nho hưng Phật", và tình nguyện từ bỏ hệ tư tưởng mà mình đã theo đuổi suốt cuộc đời, để tìm đến đạo Phật, mong rằng tiếng chuông tỉnh thức của Phật có thể gội sạch những linh hồn lầm lỗi như hàng nghìn năm trước Bụt đã làm. Trước đó, ở phía bên kia biên giới, trong phong trào duy tân, Lương Khải Siêu cũng đã kêu gọi "bài Nho hưng Phật". Rất có thể sự kiện này sẽ là một "mâu thuẫn" khó có lời giải, bởi khi chưa đối mặt với phương Tây, Phật giáo đã từng bị bỏ quên, thế mà bây giờ nó lại trở thành một sự lựa chọn "mới".

Không lạ sao được khi đạo Phật Việt Nam lúc này không có đại bác, súng ống hiện đại, không có quyền lực, tiền của hậu thuẫn... chỉ có những pho tượng Phật lặng ngồi ngắm nhìn dòng chảy vô thường trôi đi, trôi đi; chỉ có những tiếng chuông chùa, câu niệm Phật; chỉ có giọt lệ bi tâm trong những đêm thiền truyền đời nhỏ xuống... Vậy người ta chọn đạo Phật để làm gì? Phải chăng ở tầm văn hóa, đạo Phật chính là nguồn nội lực văn hóa tâm linh của dân tộc trong suốt hơn hai nghìn năm hội tụ? Có thể người ta đã nhận ra tinh thần vô ngã, khoan dung, bất bạo động của Phật giáo chính là tấm gương phản chiếu, nhìn vào nó quân xâm lược như nhìn vào kính chiếu yêu, nhưng tấm gương ấy không phải để chiếu ra quỷ, ra yêu mà để con người có cơ hội nhìn thấy mình còn là con người đúng nghĩa.

Phong trào chấn hưng Phật giáo ra đời, vượt ra khỏi chủ ý "nhân văn mị dân" của thực dân Pháp sau những vụ cướp phá chùa chiền và huỷ hoại di sản vật thể và phi vật thể của dân tộc. Mạch nước ngầm văn hóa tâm linh của dân tộc một lần nữa lại được Phật Mẫu Man Nương điểm huyệt, hồn thiêng sông núi và câu niệm Phật thân thương từ nghìn xưa vọng về trong bom đạn, khổ đau và tủi nhục. Nghìn năm trước, người tăng sĩ đã bước lên đỉnh núi hét một tiếng dài làm lạnh cả thái hư, nghìn năm sau chiếc y vàng phải trải qua không ít lần tắm máu, nhưng câu niệm Phật và lòng khoan dung thì không bao giờ thay đổi. Những "cô tấm-sinh viên" lại ngồi chụm đầu vào nhau mà khóc, khóc vì bị dì ghẻ ghét ghen, hãm hại. Và Bụt lại hiện ra: "Con hãy đi tìm cái đẹp từ trong đống tro tàn của thù hận kia". Khi Bồ tát Quảng Đức hoá thân, giọt lệ bi tâm của cả dân tộc đã dồn tụ lại thành trái tim bất diệt. Lửa khoan dung, bất hại cháy lên, hồn dân tộc sáng bừng trong tỉnh thức. Phật giáo Việt Nam - dân tộc Việt Nam nhập vào làm một, và trái tim của mọi miền đất nước, của thế giới yêu hòa bình đều cùng nhau thổn thức. Nói như thi sĩ Vũ Hoàng Chương: "Muôn vạn khối sân si vừa mở mắt, Nhìn nhau tình huynh đệ bao la...".

Không hiểu sao, cho đến hôm nay, trong những cuộc đối thoại giữa các nền văn minh, văn hoá Á - Âu, lại có người cho rằng "Nếu nói cho đủ thì trong tiến trình lịch sử của mình, Việt Nam lại còn có cơ hội tiếp cận (vì lý do chiến tranh và ý thức hệ) với nhiều nền văn minh..." và "Chiến tranh thật khốc liệt với nhiều tội ác và thương tích nhưng đó là một thế kỷ đủ giúp Việt Nam bứt ra khỏi cái thế giới Trung Hoa truyền thống không chỉ về chính trị mà quan trọng hơn là sự tiếp nhận những giá trị văn của văn hoá phương Tây, trở thành một phần di sản và bản sắc của văn hoá Việt Nam hiện đại". Sao lại có thể nhận thức kiểu "không vỏ dưa thì vỏ dừa" như thế.

Chiến tranh là một nguyên nhân, một cơ hội làm cho dân tộc chúng ta đẹp như hôm nay sao? Nói cho "vừa lòng nhau" như thế thì đau lắm. Con đường tơ lụa mà Âu - Á khi xưa gặp nhau không có chiến tranh mà vẫn đẹp. Đành hanh một tí mà nói thì kết quả tất yếu của một hệ suy như vậy sẽ dẫn đến quan niệm "không có chiến tranh (đặc biệt là chiến tranh của Pháp) có lẽ người Việt vẫn còn ăn lông ở lỗ trong cõi mù mờ nào đó...". Nếu chiến tranh có thể mang lại nhiều cái đẹp cho dân tộc ta như thế thì quả thật việc khát khao hoà bình chỉ còn là chuyện hết sức vớ vẩn. Có thể có cái đẹp nào mà không có chiến tranh không? Hiển nhiên là có. Có sự giao lưu nào không cần đến chiến tranh không? Hiển nhiên là có. Đạo Phật và dân tộc Việt đã gặp nhau và thương nhau là một minh chứng. Nếu lúc này thế giới chưa thể tìm lại được cái điều hiển nhiên ấy thì chúng ta cũng không thể nhận thức văn hóa theo kiểu hãy "đưa trứng vịt cho gà ấp" để kết quả sẽ nở ra những con vịt cứ nhận lầm gà là mẹ..., đau đến tức cười.

Có thể nói, sự hội nhập văn hoá, văn minh cần thiết nhất cho hạnh phúc con người phải là sự hội nhập tình nguyện và tự nguyện, không phải vì lý do ép buộc, nhân nhượng, đánh đổi, bằng chính trị, quân sự, kinh tế, "hôn nhân"... càng không thể vì lý do chiến tranh. Nếu không nhận thức một cách đầy đủ về vấn đế này, mọi người dù có ngồi lại thảo luận với nhau trên triệu triệu trang giấy thì thế giới cũng vẫn chỉ là một nền văn hóa, văn minh bị "những người khổng lồ" thao túng. Khi xưa các cụ ta đã sáng tạo ra biểu tượng "tri hành hợp nhất" bằng hình ảnh Phật Bà nghìn mắt nghìn tay và hình ảnh Bồ tát Quán Thế Âm ứng đủ muôn thân để độ chúng sinh viên mãn, là các cụ ta đã gửi gắm ý nghĩa đầy đủ nhất của sự thống nhất trong đa dạng. Đó cũng chính là lý do để đạo Phật - nền văn hoá tâm linh của dân tộc, tiếp xúc, đối thoại 1.000 năm với Trung Quốc, 100 năm với phương Tây mà vẫn đứng vững và trở thành thành tố quan trọng của văn hoá dân tộc. Từ thực tiễn sinh động đó, chúng ta tin rằng Đạo Phật có khả năng cùng với dân tộc đối thoại với bất kỳ nền văn hoá, văn minh nào ngay cả trong những lúc tưởng chừng như im lặng...

(Văn hóa Phật giáo)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/03/2018(Xem: 11643)
- "Động Cửa Thiền" (ĐCT) là truyện ngắn đắc ý nhất của Tâm Không Vĩnh Hữu (TKVH), đã được rất nhiều trang web đăng tải, được người khác chuyển thể thành thơ lục bát, được vài tổ chức phi chính phủ đưa vào audio "đọc truyện", được đến 2 nhóm điện ảnh tự ý chuyển thể kịch bản phim để tham dự Liên hoan Phim Ngắn Quốc Tế, và cũng được nhiều tác "giả" tự tiện cải tên đổi hiệu lấy làm sáng tác của chính mình...
28/02/2018(Xem: 8306)
Ở đời có những người không đức lại tự cho rằng quá nhiều đức; không tài lại nghĩ mình kỳ tài không ai bằng; làm lợi ích cho người không được bao nhiêu mà nghĩ mình làm quá nhiều; thành tựu không lớn mà nghĩ là thành tựu chưa từng thấy… là bởi “cái tôi” quá lớn. Cái tôi (the Self, the Ego) ấy vượt khỏi giới hạn của thân xác, đóng cọc cắm rào khắp nơi nào nó hướng đến. Nó vô hình nhưng lại mượn cái hữu hình để tự thể hiện sự hiện hữu của nó. Và sự hiện hữu theo cách thế bành trướng, lấn lướt của một cái tôi lớn, làm cho không gian chung quanh chật chội, tù túng. Ngay cả môi trường sống của gia đình, trường học, làng xóm, tổ chức tôn giáo, quốc gia, cho đến thế giới, trước sự hung hăng hãnh tiến, tự tin, tự mãn của một “cái tôi đáng ghét,” (1) sẽ bị ô nhiễm, khó thở. Cái tôi ấy nếu là người bình thường thì chỉ gây khó chịu, hoặc làm trò cười cho hàng thức giả trong vài phút giây; còn như cố gắng giành lấy trách nhiệm lãnh đạo tập thể nữa thì mới là hiểm họa cho nhiều người, trong một
08/02/2018(Xem: 7431)
Ta lỗi hẹn rồi với Huế xưa Với chiều phai nắng, với cơn mưa Với đường hoa xứ hương thoang thoảng... Có lẽ.. hồn quê vẫn đợi chờ ?
08/02/2018(Xem: 8425)
Hỏi: Thế nào là tâm bị ô nhiễm ? Đáp: Tâm gồm hai phần chính là tâm và sở hữu tâm (tâm sở). Sự thấy biết cảnh thuần khiết gọi là tâm. Sự pha màu vào thấy biết cảnh thuần khiết làm nó biến dạng gọi là tâm sở. Cả hai tâm này đồng sinh, đồng diệt, đồng cảnh, đồng trú căn. Cho nên rất khó biết được tâm (thuần khiết) mà chỉ biết được tâm sở. (Tâm sở là tâm nhận diện cảnh theo chức năng riêng của nó, như tâm sở Tham có chức năng là khao khát cảnh, tâm sở Sân có chức năng huỷ diệt cảnh). Giống như đường hoà vào nước, người uống chỉ biết vị ngọt của đường mà không thế biết sự không vị của nước tinh khiết trong nước đường. Nước bản chất là H2O, nếu lẫn cặn thì gọi là nước đục, lọc cặn đi gọi là nước trong, nhưng bản chất nước là nước, không trong, không đục. Tâm cũng như vậy. Vì lẫn vào sự khao khát, ham muốn cảnh của tâm sở Tham nên gọi là Tâm Tham nên chẳng ai còn biết đến Tâm nữa, chỉ bị thu hút bởi Tham tâm sở mà thôi.
08/02/2018(Xem: 4412)
Nhân dịp qua Houston dự Đại hội Phượng Vỹ, một chị bạn đã rủ tôi về Florida chơi cho biết. Nghe đến Florida tôi đã hình dung ra một miền nắng ấm, cây cỏ xanh tươi và sóng biển rì rào như mời gọi khách phương xa. Mà thật vậy, con đường từ phi trường về nhà chị đã quá quyến rũ du khách bởi những hàng cây, những thảm cỏ xanh um, trải dài ra tận chân trời. Bước xuống nhà chị, tôi bàng hoàng vì phong cảnh quá đẹp, trước nhà là một bãi cỏ mượt như nhung với những hàng cây cọ cao thẳng tắp, đẹp như trong tranh vẽ làm tôi cứ đứng ngẩn ngơ như người từ trên rừng thượng du về. Đứng trước cổng nhà, tôi đã reo lên: - A! bông cẩn Huế đây! Thanh thanh năm cánh mỏng uốn cong về phía sau làm bông hoa như cái lồng đèn tròn nhỏ, ôm lấy dây nhụy vươn dài có những hạt phấn nhỏ li ti màu vàng; khác với bông cẩn tây, hoa lớn hơn, dày, nhiều cánh xoắn xít lấy nhau, tràn sức sống mà thiếu nét mềm mại, ẻo lã... rất Huế.
02/02/2018(Xem: 14103)
Báo Chánh Phap - số 75 - Giai Phẩm Xuân Mậu Tuất 2018
29/01/2018(Xem: 4806)
Quan hệ gắn bó Nghệ An – Quảng Nam không chỉ thể hiện ở mặt Văn học mà còn để lại những dấu ấn sâu sắc nơi Võ học. Bên cạnh các thầy Đồ Nghệ dày công vun đắp cho văn học Quảng Nam phát triển rực rỡ còn có các võ sư xứ Nghệ đã giúp cho nền võ học Quảng Nam trở nên lừng lẫy một thời với các võ sĩ “bất khả chiến bại” trên võ đài và đóng góp nhiều vào sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc.
27/01/2018(Xem: 3957)
Tác phẩm “Thong Dong Khắp Mọi Nẻo Đường” chỉ dài khoảng 360 trang, nhưng chứa đựng rất nhiều tâm lực – đó là những suy nghĩ của tác giả Bạch Xuân Phẻ (Tâm Thường Định) từ nhiều năm đứng dạy trong trường học Hoa Kỳ và nhiều thập niên hoạt động trong cương vị Huynh trưởng Gia Đình Phật Tử. Đó cũng là những chiều dài địa lý, qua những đại dương trên địa cầu, những nơi tác giả đã đi thật xa trên đường tìm học Thiền và rồi cũng đi thật xa trên đường hoằng pháp. Nói như người xưa là, cuốn sách quý độc giả đang cầm trên tay đã được viết từ người cư sĩ đã đi mòn biết bao nhiêu đôi giày và đã ngồi mòn biết bao nhiêu bồ đoàn để thâm nhập Phật pháp, và rồi hoằng pháp.
20/01/2018(Xem: 5034)
Ngày nay trái đất đã thu hẹp lại, đó là nhờ phương tiện di chuyển và phương tiện thông tin. Người ở bên này trái đất có thể rất gần gũi với người ở bên kia trái đất, giống như hai người kề cận nói chuyện với nhau, như cùng một nhà hay hàng xóm láng giềng. Cho nên quan niệm xa-gần chỉ là tương đối. Ngày xưa mẹ tiễn con, em tiễn chị lấy chồng ở bên kia sông (sang ngang) coi như “nghìn trùng xa cách” với những câu ca dao nghe đứt ruột: Chiều chiều ra đứng ngõ sau. Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều. Ngày nay câu ca dao “gả chồng xa” được các màn hài kịch/chọc cười sửa lại rất vui và rất thấm thía như sau: Mẹ ơi đừng gả con xa. Gả con đi Mỹ, Con gửi đô-la mẹ xài. Xin nhớ Việt Nam cách Mỹ 19 giờ bay của máy bay phản lực, chứ không phải là chuyến đò qua bên kia sông. Như vậy tiền bạc và tình cảm đã làm cho xa thành gần và gần thành xa mà Phật Giáo cho rằng mọi chuyện trên cõi đời nay do Tâm mình tạo ra “Nhất thiết duy tâm tạo”. Cho nên mặc dù ở xa vạn dặm, chưa một lần gặp mặt, Thượn
19/01/2018(Xem: 3641)
Hôm nay, tôi hân hạnh được Hội Đồng Giám Khảo Giải Viết Về Đạo Phật của Viet Ananda Foundation ủy thác nói vài lời. Bản thân tôi không có gì đặc biệt, chỉ do cơ duyên trong 3 thập niên gắn bó với báo chí trong đạo và ngoài đời thường, và là một người luôn luôn hối thúc các bạn đạo phải tu, phải học, và phải cầm bút viết. Bởi vì, tôi thường nói với bạn hữu rằng hãy hình dung, nếu nhiều thập niên trước, không có sách của quý Thầy như Thích Nhất Hạnh, Thích Thanh Từ, Thích Minh Châu và nhiều vị khác, Đạo Phật bây giờ đã không phong phú như hiện nay.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]