Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lá Thư Tưởng Niệm Thầy Tôn Thất Tắc

02/06/201122:59(Xem: 3954)
Lá Thư Tưởng Niệm Thầy Tôn Thất Tắc
Ton That Tac

Lá Thư Tưởng Niệm
 
(Kính dâng hương hồn Thầy Tôn Thất Tắc,
Giáo sư Toán của tôi)


 

Thưa Thầy,

Dù biết rằng rồi một ngày Thầy cũng phải ra đi nhưng con vẫn bàng hoàng xúc động khi nhận được hung tin !

Viết về Thầy, không biết con có diễn tả đầy đủ hết mọi ý nghĩ của mình bởi vì con cũng đã có nhiều kỷ niệm dễ thương về Thầy mà mỗi lần nhớ lại, lòng không khỏi dâng lên niềm xót xa !

Ngày con học Đệ Tam trường Quốc Học Huế, Thầy là một giáo sư mới ra trường, tràn đầy nhiệt huyết, áo quần lúc nào cũng bảnh bao tươm tất; vào lớp Thầy giảng bài hăng say như quên cả thời gian. Khi Thầy đứng lớp, có nội qui luật lệ đàng hoàng, chúng con đôi khi cũng ngán nhưng Thầy rất yêu thương học trò.

Rồi một hôm, con thật bất ngờ khi nghe một người quen kể lại rằng Thầy đã tâm sự với anh ấy về con như sau : „Trong lớp „moi“ có một con nhỏ học trò, nó có đôi mắt sâu quá, mỗi lần giảng bài thấy nó nhìn là „moi“ bối rối !“. Ôi chao, con nghe mà cũng bối rối theo luôn bởi vì giờ Thầy giảng bài mà học trò không nhìn Thầy thì nhìn ai bây giờ ?, không lẽ con phải để đôi mắt ra ngoài cửa sổ để nhìn mây bay lang thang và đếm lá rơi từng chiếc hay sao ? Thật khổ tâm cho con, từ đó đến giờ Thầy, con phải giả vờ ghi chép thật nhiều để tránh bớt nhìn Thầy, làm như mình là một người học trò chăm chỉ nhất lớp.

 

Nghĩ về Thầy, có một điều làm chúng con ân hận là cái tên và họ của Thầy dễ có nhiều tên ghép quá nên lũ học trò hay đặt nhiều hỗn danh cho Thầy, tuy không có ác ý nhưng chỉ vì tính nghịch ngợm mà thôi. Kính xin Thầy tha thứ cho những lỗi lầm của chúng con trong đời học sinh còn trẻ và thích vui đùa nghịch phá. Thầy ít khi giận người, hiếm nghe lời nói nặng, Thầy là tấm gương sáng cho chúng con mãi mãi noi theo.

Rồi sau năm 1975, Thầy trò đều rách nát như nhau. Gặp lại Thầy, Thầy gầy hơn trước nhiều lắm, lưng hơi còng, lại quá ốm. Cả hai Thầy trò đều lọc cọc trên chiếc xe đạp cà tàng !

Con ái ngại hỏi Thầy :

-    Thưa Thầy, Thầy có tiền hưu không ạ ?

-    Tôi làm gì có tiền hưu.

-    Thế thì, Thầy lấy gì để sống ?

-   Trong nhà có cái gì bán cái đó, bán lần hồi sống qua ngày, được ngày nào hay ngày đó.

Điệp khúc „Được ngày nào hay ngày đó“ nghe mà não lòng vô cùng !

Sau đó, con đã xin phép mời Thầy đi ăn một chút gì với con vì con vừa mới lãnh nửa tháng lương (hồi đó lương phát một tháng 2 kỳ).

-    À ra thế, mà lương Chị có khá không ?

-    Dạ thưa Thầy, được 80 đồng.

Vào quán, con đã kêu hai tô bún bò, ăn chưa được nửa tô, Thầy khen :

-   Bún bò ở đây ngon thiệt, lâu quá rồi tôi mới được ăn ngon như vậy !

Thấy Thầy thích, con lại kêu thêm một tô cho Thầy nữa, hai Thầy trò được một bữa ăn no nê.

 

Trên đường về, Thầy băn khoăn hỏi con :

-       Ăn như vậy có đắt lắm không ?

-       Thưa Thầy, không bao nhiêu.

-       Tôi muốn biết cụ thể để khi nào có điều kiện thì…

Con đành nói thật :

-       Thưa Thầy, tất cả hết 15 đồng.

Thầy nhẩm tính :

-       Thế thì gần hết ½ tháng lương của Chị rồi.

-       Lâu lâu mới „hào hoa“ một lần, Thầy lo gì !

Trước khi chia tay, con đã nhét vội vào túi quần Thầy 10 đồng.

Thầy quay người lại :

-       Ơ! Ơ! bậy nào, không được...

Nhưng con đã leo lên xe đạp chạy mất !

 

Rồi con được ra đi, Thầy ở lại với bao nỗi u hoài chất chứa trong lòng !

Qua năm 2001, con trở về thăm gia đình, đồng thời lại nhận được giấy mời tham dự buổi họp mặt thường niên các Thầy Cô giáo và học trò cũ của hai trường Quốc Học - Đồng Khánh Huế. Con đã hỏi thăm Ban Tổ Chức xem trong danh sách các Thầy Cô ngày mai gồm có những ai và được biết có Thầy.

Thế là con đã đi mua một giỏ hoa thật đẹp, muốn đem đến một điều bất ngờ cho Thầy; mới nghĩ chừng đó mà lòng con đã rộn ràng reo vui !

 

                   Ton That Tac

 

Khi em xướng ngôn viên mời Thầy lên, Thầy đã giật mình và sau một phút giây ngơ ngác Thầy từ từ đứng dậy bước lên sâu khấu với nụ cười thật tươi trên nét mặt rạng ngời. Trong lời phát biểu, con đã xen lẫn một câu nói đùa, con nói rằng : „Cả đêm qua không ngủ được vì cứ sợ sáng hôm nay nếu Thầy không đến, giỏ hoa nầy con không biết tặng cho ai vì người yêu lý tưởng của con không còn nữa“ làm cho Thầy và cả hội trường cười vang !

Cho đến bây giờ con vẫn không quên đôi mắt rưng rưng và đôi tay run lên vì xúc động khi Thầy đón nhận món quà và càng cảm động hơn khi các học trò cũ của con hiện diện hôm đó đều đồng loạt đứng dậy vỗ tay hoan hô cử chỉ ân tình mà con đã dành cho Thầy. Con vui suốt ngày hôm đó, con đã mang đến cho Thầy một niềm hãnh diện vì chỉ có Thầy là người duy nhất có quà tặng của học trò cũ mà thôi. Nghề giáo không phải là một nghề bạc bẽo như người ta thường nói. Với con thì trái lại đó là một cái nghề cho không bao nhiêu nhưng đã nhận rất nhiều.

 

Tan buổi lễ đã lâu mà các em học sinh cũ vẫn còn vây quanh con, nghĩa cử của con đối với Thầy vừa rồi là một hình ảnh đẹp mà các em sẽ nhớ mãi và sẽ noi theo để thực hành sau này.

Bây giờ nhớ lại, con vẫn thấy xôn xao trong lòng. Hãy trả lại cho chúng con nét rạng ngời hạnh phúc mà Thầy đã mang lại cho chúng con trong khoảnh khắc kỳ diệu khi Thầy trò ta đoàn tụ. Đó là niềm hạnh phúc không thể mua bằng tiền, nó chỉ đến khi trong trái tim ta có một tấm lòng.

Cả một đời với cái tâm, Thầy đã sống tận tình với gia đình, với trường, với bạn, với học trò sách vở. Cái tâm ấy đã làm cho Thầy trở thành một vị Thầy khó quên của trường Quốc Học Huế năm xưa!

 

Nghe bạn bè kể lại, hôm đến thăm Thầy lần cuối, Thầy sửa soạn đi vào giấc ngủ ngàn năm, khuôn mặt Thầy đẹp và thanh thoát như nét mặt thiền sư nhưng nhìn kỹ môi Thầy thì dường như ẩn hiện vừa một thoáng mỉm cười bao dung thương mến, vừa một chút khẩy cười tiếu ngạo với trần thế sau lưng.

 

Thầy vẫn thường nói : „ Con người rốt cuộc vẫn là kẻ "viễn hành cô lữ" và Thầy đã ra đi làm "người lữ hành cô lữ“, để lại muôn vàn hụt hẫng tiếc thương cho Cô, cho các cháu, cho tang quyến và cho tất cả bạn bè cũng như học sinh chúng con.

 

Xin chân thành chia nỗi bi thương, xin cho được chia nước mắt, chia nỗi tiếc nhớ, niềm kính yêu cùng Cô và tang quyến khi nghĩ về Thầy.

 

Xin vĩnh biệt một người Thầy hết lòng vì trường lớp, vì học sinh; một người Thầy chỉ biết dâng hiến cả đời mình cho phấn trắng bảng đen.

 

Cầu mong Thầy thanh thản về với thiên thu.

 

 

Học trò cũ của Thầy

 

Nguyên Hạnh HTD

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
19/11/2016(Xem: 6006)
Nhưng việc ra mắt sách chỉ là cái cớ, bởi bản thân dòng thông tin ngắn gọn rằng nhà sư Thích Phước An từ đồi Trại Thủy (Nha Trang) vào Sài Gòn đã có một sức quyến rũ đặc biệt đối với bạn bè, người đồng đạo và giới quan tâm.
16/11/2016(Xem: 12325)
Mục đích của giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các hiện tượng thiên nhiên và đời sống xã hội, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được giáo lý thâm sâu, vi diệu mà rất gần gũi, giản dị của đức Phật trong đời sống hàng ngày.
19/10/2016(Xem: 16672)
Tại phiên bế mạc Đại hội Liên minh Bưu chính Thế giới (UPU) lần thứ 26 tại Istanbul - Thổ Nhĩ Kỳ vừa diễn ra, em Nguyễn Thị Thu Trang học sinh lớp 9B trường THCS Nguyễn Trãi, huyện Nam Sách, Hải Dương (năm học 2015-2016) đã đọc bức thư hay nhất thế giới do em viết trước đại diện 190 quốc gia.
07/10/2016(Xem: 11799)
Vào Thu đọc thơ Nguyễn Du: Hai bài thơ mang tên Thăng Long của Nguyễn Du Một phần nghiên cứu dịch văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du qua bài Thăng Long 昇龍 [1] Tản mạn nhận diện Quốc hiệu Việt Nam trong ý thơ của bài thơ Thăng Long Khái niệm lịch sử của Thăng Long Thăng Long, là kinh thành - kinh đô của đất nước Đại Việt, từ vương triều Lý , (gọi là nhà Lý hoặc Lý triều, 1009-1225) cho đến triều đại nhà Lê Trung Hưng (1533-1789), tổng cộng 564 năm[2]. Thăng Long cũng được hiểu và được biết đến trong lịch sử vốn là địa danh tên cũ của Hà Nội hiện nay. Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên” theo nghĩa Hán-Việt, hay 昇隆[4] nghĩa là “thịnh vượng”. Từ Thăng Long: “昇隆” là từ đồng âm với tên “昇龍: Thăng Long”, nhưng mang nghĩa khác với “昇龍”.
27/09/2016(Xem: 7539)
Không bíết từ bao giờ những chú chim đã quây quần về đây càng ngày càng đông, nhảy nhót ca vang trên cành cây bên cạnh nhà mỗi ngày khi mặt trời chưa ló dạng. Nằm nướng vào những ngày cuối tuần, hay những hôm trời mưa rỉ rã, lúc trời đất giao mùa nghe chúng riú rít gọi nhau đi tìm mồi mình cũng thấy vui vui.
22/09/2016(Xem: 20770)
Đã có nhiều người nói và viết về nhạc sĩ Hằng Vang . Phần nhiều là những bài viết trong sáng, chân thực. Thiết tưởng không cần bàn cãi, bổ khuyết . Viết về anh, nhạc sĩ Hằng Vang, tôi chỉ muốn phác một tiền đề tổng hợp cốt tủy tinh hoa tư tưởng, sự nghiệp sáng tác của anh ; rằng : Anh là một nhạc sĩ viết rất nhiều ca khúc cho nền âm nhạc Phật Giáo Việt Nam, anh là một thành phần chủ đạo trong dòng chảy âm nhạc nầy ngay từ khi khởi nghiệp sáng tác thời phong trào chấn hưng Phật giáo, xuyên suốt qua nhiều biến động lịch sử trọng đại của PGVN cho đến tận bây giờ, anh vẫn miệt mài, bền bĩ cảm xúc, sáng tạo trong dòng chảy suối nguồn từ bi trí tuệ đạo Phật.
29/08/2016(Xem: 4435)
Cứ thế, một ngày vụt qua, lững thững ra đi không lời ước hẹn, cứ vậy, mịt mùng trao đổi, thân phận dòng đời, chờ chực vây quanh, chạy quanh lối mộng. Chiều xuống, nỗi buồn miên man gởi bay theo gió, trên kia cơn nắng chói chang của mùa hạ còn vương lại đâu đây, lặng nhìn núi đồi hoa lá, từng ấy trong lòng, một cõi mù khơi. Những giọt mồ hôi uể oải, từng nỗi đớn đau lũ lượt đọng lại, từng cơn hiu hắt thấm vào hồn, bây giờ trở thành những đơm bông kết nụ, những đắng cay ngọt bùi. Đâu đó, một chút hương lạ, làn gió bất chợt nhẹ lay, điểm tô không gian lắng đọng phiêu bồng, những thinh âm cao vút tận trời không, những hằng sa bất tuyệt chốn không cùng.
21/08/2016(Xem: 4193)
So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ).
13/08/2016(Xem: 3614)
Đức Phật đã dạy: " Mọi chuyện đều khởi đi từ duyên; duyên còn còn hiện hữu, duyên tan mọi sự trở về với trống không." Thật vậy, tôi chưa từng quen biết với các anh em trong " Hội Xây Dựng Tượng Đài Tỵ Nạn Hamburg", vậy mà mới lần đầu gặp gỡ khi các anh kéo nhau về ở München, tôi đã bị lôi cuốn bởi vẻ linh hoạt của anh Huấn, dáng điệu khoan thai, trầm tĩnh đầy chất Huế của anh Phù Vân, sự hăng say nồng nhiệt của anh Dũng, lời lẽ hài hước của anh Thoảng và dáng vẻ hiền từ dễ thương của chú Dũng Scirocco. Như vậy tôi phải có duyên lành với các anh nên mới nhận lời nối tiếp công việc các anh đang làm từ phút giây gặp gỡ ban đầu. Hơn nữa, đây là một nghĩa cử cao đẹp đầy ý nghĩa và cũng là dịp để Cộng đồng Việt Nam tỏ lòng biết ơn con tàu CAP ANAMUR, biết ơn nhân dân Đức đã cưu mang chúng tôi; vì vậy tôi đã hăng hái bắt tay vào việc với
31/05/2016(Xem: 13283)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]