Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những ngày lang thang

28/10/201004:30(Xem: 3307)
Những ngày lang thang




saigon_map
NHỮNG NGÀY LANG THANG



● Nguyên Hạnh HTD

Viết để nhớ ngày 30 tháng 4 đen.

 

 

D

ù bây giờ đã qua hết những ngày tất tả ngược xuôi lo chạy gạo bữa đói bữa no, lăn lóc chợ trời nhục nhã ê chề tấm thân; những ngày dầm mưa dãi nắng lặn lội đi thăm nuôi nhưng những kỷ niệm buồn sâu thẳm vẫn còn đậm nét trong lòng tôi mãi mãi mỗi độ tháng tư về.

Sau khi hai đứa con ra đi được hai ngày, tôi được tin chuyến tàu bị bể. Tôi vừa bàng hoàng vừa cầu xin đó không phải là sự thật, nếu quả đúng như vậy liệu tôi có còn đủ sức chịu đựng hay không vì chồng tôi đang còn ở trong trại cải tạo. Nóng ruột quá, tôi bèn rủ một em học trò cũ lên nhà bà chủ tàu để dò hỏi tin tức. Khi đi thì hăng hái như vậy nhưng gần đến ngõ rẽ đi vào nhà, tôi không còn can đảm tiếp tục bước nữa. Tôi ngồi lại một mình dưới gốc cây vừa niệm Phật vừa cầu xin, mắt không rời theo dõi vào con ngõ sâu hun hút đó. Càng chờ ruột gan càng nóng như lửa đốt, không chịu nổi nữa tôi đi liều vào. Vừa đến nơi hai chân tôi đã muốn khuỵu xuống, một bầu không khí im lặng nặng nề, hai người ngồi như 2 pho tượng; sau đó em học trò mới xin lỗi là đã để tôi chờ lâu quá vì em không đủ can đảm ra báo hung tin.  Chuyến tàu đã bị công an rượt đuổi khi ra đến cửa biển và đã bị bắt! Cổ họng tôi khô đắng, mắt mở trừng trừng, hai thầy trò thất thểu ra về, không ai nói với ai lấy một lời.

Tôi tưởng mình không còn nước mắt để khóc, vậy mà trên đường về tôi đã khóc như mưa như gió; cả hai đều khóc vì người cháu của em học trò cũng cùng đi với con tôi trong chuyến này. Đôm hôm đó, ôm chiếc gối vào lòng tôi đã ngồi dựa vào tường suốt đêm, chưa bao giờ tôi cảm thấy bơ vơ đến tận cùng như vậy; nhà chỉ còn 3 mẹ con mà cháu út lại còn quá nhỏ. Qua cơn đau, dần dần tôi lấy lại can đảm cho chính mình phải cắn răng mà chịu để vượt qua mọi khó khăn trước mắt, bây giờ chỉ còn tôi là cột trụ chính của gia đình, tôi mà gục ngã thì ai sẽ dang tay cứu vớt chúng tôi đây?

Thế là 4 giờ sáng hôm sau, tôi cương quyết tìm đường đi thăm con vì hôm ấy là sinh nhật thứ 12 của đứa con gái. Vội vả làm một ít thức ăn để lại nhà cho con, tội nhất là đứa út mới 4 tuổi, mỗi lần đi thăm nuôi phải gởi nhờ nhà hàng xóm, còn quà của con gái tôi là một giỏ bánh kẹo. Đi suốt một ngày trời không ăn uống, không nghỉ ngơi, đến gần chiều vẫn chưa tìm ra chỗ giam. Dọc đường cứ dò hỏi những người lơ xe đò, họ chỉ đâu tôi đi đó, cuối cùng mới tìm ra được trại giam ở giữa chốn đồng không mông quạnh, bốn bề lồng lộng gió. Nôn nóng đi tìm thăm con cho được nhưng khi đến nơi rồi mới bắt đầu run, thế nào họ cũng sẽ đặt câu hỏi vì sao tôi biết nơi này mà đến? Sau khi tìm cách đối phó, năn nỉ mãi ông trưởng trại mới chịu cho tôi được gặp con vì chưa đến ngày thăm nuôi.

Tôi hồi hộp chờ đợi, nhìn qua khung cửa sổ sau lưng ông ta, trên con đường đất đằng xa tít dưới nắng chiều thoi thóp, hai anh em lê từng bước một. Trời ơi! đứa con gái xác xơ hốc hác, 2 mắt bị nhậm đỏ, con trai tôi thì tiều tụy thảm thương, tôi phải cắn chặt răng lại để nước mắt khỏi trào ra. Tôi chỉ trao vội vàng giỏ bánh kẹo, một ít thuốc men còn tiền thì họ giữ lại. Thất thểu ra về, lòng tôi tan nát, khao khát muốn ôm các con vào lòng dù chỉ trong phút chốc mà đành chịu! Mới mấy hôm mà các con tôi sa sút mau quá, con đường trước mặt tôi còn lắm chông gai, nặng nề vô kể, liệu đôi chân tôi có đứng vững được hay không?

Sau một tháng bị giam giữ, con gái tôi được thả về trước. Mới một tháng không thấy ánh đèn thị thành vậy mà khi về đến xa cảng thấy cả một thành phố rực sáng, con tôi đã òa ra khóc nức nở! Thôi thì dù sao đi nữa tôi cũng nhẹ bớt được gánh nặng đè lên đôi vai, ngày đi buôn chợ trời, tối về phải kèm cho con học để theo kịp bài vở ở trường.

Một thời gian sau, họ đưa con trai tôi về giam ở gần Sa Đéc, tôi rất mừng vì đường đi thăm nuôi sẽ đỡ vất vả hơn. Mỗi lần đi thăm quá sức cực khổ, chen chúc giành giựt mà cũng chỉ mua được giá vé chợ đen dù rằng đã đi lúc 3 giờ sáng; nhiều lúc chỉ bám vào hông xe mà đứng, hai vai mang đầy 2 giỏ thức ăn nặng trĩu, sinh mạng rẻ như bèo! Lần này đi thăm nuôi, cứ yên chí đi và về chỉ trong một ngày nên tôi đã không dự trữ thức ăn cho các con ở nhà. Không ngờ khi đến nơi chỉ đọc được một tờ thông báo là đã đưa tù nhân về một trại giam khác ở vùng Đồng Tháp Mười sau khi đã kêu án 3 năm tù. Tôi dọ hỏi dân chúng ở gần đó, họ cho hay cứ hai người còng chung tay lại và đã đưa đi hồi 2 giờ sáng. Tôi nhất quyết đi tìm vì nếu phải đợi đến nửa tháng sau mới được đi thăm nuôi lại, con tôi sẽ lấy gì mà ăn? Vậy là tiếp tục cuộc hành trình, lần mò qua đò qua sông, họ chỉ cho tôi hãy tìm cách về đến Cao Lãnh rồi sau đó sẽ có „tắc ráng“ là phương tiện di chuyển duy nhất để vào trong trại giam. Lặn lội ngược xuôi khi đến nơi thì đã hết đò vì mỗi ngày chỉ có một chuyến thôi. Cho đến bây giờ, mỗi lần nghe tiếng lá cây rạt rào trong gió là tôi lại nhớ đến bến đò hiu hắt năm xưa với hình ảnh một ông già mù ngồi kéo cây đàn cò não nuột dưới gốc cây bàng xơ xác lá!

Dân hàng quán ở hai bên cũng xúc động cho hoàn cảnh của tôi nên đã chỉ dẫn cho tôi đến trình diện phường Công an gần đó rồi nhờ họ giới thiệu phòng trọ cho mà ngủ qua đêm chứ không được ở khách sạn hạng sang vì loại này chỉ dành cho cán bộ cao cấp mà thôi. Gọi là phòng trọ, nhưng trời ơi! Khi đến nơi mới thấy khiếp đảm, xây xẩm cả mặt mày! Họ chỉ cho tôi một căn phòng ở tầng trệt nhỏ xíu, dơ dáy không thể tưởng được, mùng thì cũ rích với một cái giường tre ọp ẹp. Tôi không dám đặt lưng xuống, chỉ lấy cái áo mưa lót mà ngồi; đến khi buông mùng xuống tôi muốn chết khiếp luôn, rệp bu đen cả cái mùng! Thế là tôi đành ngồi bó gối suốt đêm, không dám nhúc nhích vì sợ đụng cái mùng là rệp bu tới, trong khi đó chuột chạy rần rần, chúng cứ muốn chui vào lục lọi các giỏ thức ăn. Thật chưa bao giờ tôi mong cho trời mau sáng từng giây từng phút như cái đêm hãi hùng đó.

„Tắc ráng“ chỉ là một chiếc đò rất hẹp, lót ngang bằng những thanh gỗ nhỏ, phải ngồi co chân lại mới đủ chỗ. Đã vậy những khi chạy trong các kinh lạch nhỏ, gặp lúc nước rút xuống lại càng khổ thân nữa, hành khách phải tuột xuống lội sình từng bước, còn con đò phải neo lại chờ con nước lên mới tiếp tục chạy được. Đò thì nhỏ nhưng lại chuyên chở nhiều, có đoạn phải ra sông lớn thật nguy hiểm, do đó cứ mỗi chuyến đi tôi phải dặn dò đứa con trai còn ở lại nhà, lỡ tôi đi luôn không về thì sao? Ngồi bó gối hơn nửa ngày trời, tứ chi ê ẩm quá chừng, con đường vào Đồng Tháp Mười quá gian truân, vậy mà chỉ gặp thăm con được nửa giờ thôi. Thăm xong rồi mới thấy lo, đò đâu nữa mà trở về, đường bộ không có, xin ngủ lại nhà khách vãng lai trong trại họ lại không cho làm con tôi chân đi không đành, ánh mắt nhìn tôi lo lắng xót xa đến não lòng! Tôi lại lang thang thất tha thất thểu, chưa biết qua đêm ở đâu khi chiều tối đang xuống dần! Đến khi đi ngang qua một chòi tranh rách nát nằm chơ vơ giữa cánh đồng, chỉ có một bà cụ già ngồi trên một cái chõng tre không mùng mền gì cả, tôi đánh liều xin vào tá túc qua đêm. Khi hỏi mua lại một ít gạo để nấu cơm tối, than ôi! nhà chỉ có một lu muối hột mà thôi; thì ra ngày nào người con gái ra đồng kiếm được cá mới có gạo mà ăn, còn không thì đành nhịn đói. Tôi đã đi khắp xóm tìm mua một ít gạo hoặc nếp cũng được nhưng chỉ có toàn khoai sắn! Dân làng nghèo quá không làm sao tả hết được, từng chòi tranh xơ xát nằm hai bên con kinh nước đục ngầu nhưng đó là nguồn nước cần thiết của họ để sống.

Những tưởng sẽ nhịn đói qua đêm, may sao có một chuyến đò dọc bán hàng rong đi ngang qua, tôi mua được hai lít nếp và đậu, nấu một nồi xôi thật lớn cốt để dành lại cho bà cụ no được vài ngày. Trời càng về chiều quang cảnh càng thê lương ảm đạm, tiếng ếch nhái như than van nghe càng não nuột cả tâm can, lại thêm mỗi nhà chỉ thắp một ngọn đèn dầu leo lét trông như ánh ma trơi giữa đồng không mông quạnh. Chao ôi! đến thế kỷ 20 rồi mà ánh sáng văn minh chưa hề len lỏi về đây, cuộc sống của người dân quá tăm tối lầm than; thật tội cho kiếp người dân quê ở đây, họ quá nghèo rách bươm như tàu lá chuối tả tơi trong gió!

Đêm đến chỉ biết đập muỗi liên hồi, không ngủ được, tôi lại ra sau chòi tranh mà ngó vào trại giam, chỉ cách nhau một hàng rào kẽm gai mà mẹ con tôi phải xa nhau vạn dặm như thế này? Tôi đứng nơi này lòng nát tan từng mảnh, con tôi trong đó phải chịu đựng bao cực hình; biết bao nỗi buồn phiền cứ gậm nhấm tâm hồn tôi đến mỏi mòn.

Giã từ bà cụ ra về, tôi vội nhét vào tay Cụ một ít tiền còn lại mà nước mắt tôi cứ muốn ứa ra. Tôi quá xót xa cho hoàn cảnh nghiệt ngã của bà Cụ và cũng không biết đến bao giờ tôi mới trở lại nơi đây để nói thêm một lời cám ơn Cụ đã cho tôi tá túc dù chỉ một đêm thôi.

Bây giờ các con tôi đã đến bến bờ Tự Do nhưng „Những ngày lang thang“ vẫn là những hành trang quý giá để làm chất liệu thêm cho cuộc sống, có khổ đau mới nhận thức được chân giá trị của những ngày sung sướng. Tôi nghĩ chỉ những người ra đi sau năm 75 mới thấu hiểu ý nghĩa của 2 chữ Tự Do hơn là những người đi trước. Dù sao cũng xin cám ơn đời đã cho tôi những ngày vui lẫn ngày buồn nên tôi luôn luôn trân quý những nụ cười cũng như những giọt nước mắt khổ đau tận cùng. ◙

Ý kiến bạn đọc
12/04/201801:30
Khách
Đây là một hoàn cảnh bi thương , tan tác của gia đình cô giáo Nguyên Hạnh, trong hàng trăm ngàn gia đình người dân Miền Nam sau khi bị Miền Bắc Cọng Sản xâm lăng : chồng ở tù, con vượt biên bị bắt, người vợ, người đàn bà còn lại đơn độc chống chỏi với nghịch cảnh để tồn tại và cứu gia đình . Với ngòi bút sắc nét, cô giáo người Huế,yếu đuối, cô đơn, lưu lạc trong Nam vì chiến tranh, đã vẽ lại sống động bức tranh gia đình và đất nước tang thương những ngày tháng đó, những ngày tháng đất nước vừa bị nhuộm đỏ.
Những trang hồi ký đẫm đầy nước mắt uất hận này sẽ là những trang sử u buồn để lại cho hậu thế. Xám ơn Cô Nguyên Hạnh HTD.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/04/2022(Xem: 3409)
Các nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc cho rằng Phật giáo du nhập vào Trung Quốc từ niên hiệu Vĩnh Bình đời Hán Minh Đế (58-75) căn cứ vào sự kiện vua nằm mộng thấy một người thân vàng ròng bay vào cung điện. Có vị cận thần tâu đó là đức Phật ở xứ Thiên Trúc - đấng Giác ngộ trên cả trời người. Vua liền sai người đến Tây Vực tìm cầu Phật pháp. Thật ra, Phật giáo vào Trung Quốc trước cả đời Hán Minh Đế. Lúc bấy giờ, Đạo giáo đang rất thịnh hành. Thời điểm này, Phật giáo chỉ thuần là một loại tôn giáo tế tự, học thuyết đặc thù của Phật giáo chỉ là quỉ thần báo ứng, gần với thuật cúng tế, bói toán của Trung Quốc. Vì thế, tăng sĩ Phật giáo cùng hoạt động song hành với các đạo sĩ của Đạo giáo. Tín đồ Phật giáo yêu chuộng cả đạo sĩ của Đạo giáo, nên cả hai đều hoạt động mạnh mẽ trong hoàng tộc, chứ không ảnh hưởng lớn đến dân chúng.
09/04/2022(Xem: 5988)
Mục đích của cuộc thi giải thưởng là khuyến khích việc sáng tác cá nhân, xuất phát từ nguồn cảm xúc đối với các việc xảy ra trong đời sống xã hội hàng ngày, được miêu tả, bằng nhận thức, lý giải và thái độ ứng dụng sống động qua những lời dạy của Đức Phật. Các thể tài có thể gợi ý như là chuyện công ăn việc làm, chuyện gia đình, học đường, chuyện về đại dịch hay chuyện trong nhà ngoài phố.v.v.. Bài tham dự có thể trình bày dưới nhiều hình thức như tác phẩm nghệ thuật, truyện ký, truyện ngắn, tạp bút, thơ… Người viết hoàn toàn tự do chọn đề tài, miễn có liên quan đến tư tưởng Đạo Phật và nội dung có thể chuyển tải được cách ứng dụng giáo lý vào đời sống hàng ngày.
01/04/2022(Xem: 9300)
Nếu có những khúc ngâm đoạn trường trong văn học thi ca làm cho người đọc qua nhiều thế hệ trải mấy nghìn năm vẫn còn cảm xúc đòi đoạn thì Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc là hai khúc ngâm tiêu biểu trong văn chương Việt Nam; cũng như Trường Hận Ca, Tam Lại Tam Biệt và Tần Phụ Ngâm được xem là “tam bi hùng ký” trong văn chương Trung Quốc thời Hậu Đường. Người Việt yêu thi ca thường ưa chuộng dư âm cùng ý vị lãng mạn và bi tráng giàu kịch tính hơn là vẻ bi phẫn và hùng tráng của hiện thực máu xương trong thi ca đượm mùi chinh chiến. Tâm lý nghệ sĩ nầy giúp lý giải một phần câu hỏi còn nằm trong góc khuất văn học là tại sao cho đến nay, hơn cả nghìn năm sau, tác phẩm Tần Phụ Ngâm vẫn chưa có người dịch ra tiếng Việt.
20/03/2022(Xem: 3983)
Với tập sách nhỏ nầy – tác giả không hề nghĩ đó là công trình nghiên cứu; mà chỉ xin được gọi là nén tâm hương, là tấc lòng cảm cựu dâng lên anh linh của người thiên cổ - biểu tỏ sự ngưỡng mộ văn tài và xin được chia sẻ nỗi đau đời, đau người của tiền nhân và hậu học. Sỡ dĩ không gọi là công trình nghiên cứu về Nguyễn Du vì tôi không làm theo hệ thống chương mục của tổng thể tác phẩm, mà chỉ viết theo ngẫu cảm của người đọc đối với mỗi nhân vật trong tác phẩm “Đoạn Trường Tân Thanh”, lại nữa; tôi cũng là một cá thể quanh năm đau yếu – khi viết đề tài này là tôi đang nằm tại chỗ, vì xẹp cột sống lưng và bao chứng bệnh khác – phải chăng là đồng bệnh tương lân???
20/03/2022(Xem: 6283)
Những tưởng Ninh Giang Thu Cúc sẽ gác bút sau tập nhận định “Đọc Kiều Thương Khách Viễn Phương” nhưng nào có được - bởi nghiệp dĩ đeo mang nên mới có Kiều Kinh gởi đến quý vị. Với tuổi tác và bệnh trạng – tác giả muốn nghỉ viết để duy dưỡng tinh thần, trì chú niệm kinh và chung sống an yên cùng căn bệnh nghiệt ngã là xẹp cột sống lưng... Thế nhưng; với tiêu chí – còn thở là còn làm việc, tác giả không cam chịu là người vô tích sự vì thế NGTC vẫn viết (dù trong tư thế khó khăn) mong đóng góp chút công sức nhỏ nhoi cho nền Văn học nước nhà.
24/02/2022(Xem: 8824)
Tác giả tác phẩm này là Tỳ Kheo Sujato, thường được ghi tên là Bhikkhu Sujato, một nhà sư Úc châu uyên bác, đã dịch bốn Tạng Nikaya từ tiếng Pali sang tiếng Anh. Bhikkhu Sujato cũng là Trưởng Ban Biên Tập mạng SuttaCentral.net, nơi lưu trữ Tạng Pali và Tạng A Hàm trong nhiều ngôn ngữ -- các ngôn ngữ Pali, Sanskrit, Tạng ngữ, Hán ngữ, Việt ngữ và vài chục ngôn ngữ khác – trong đó có bản Nikaya Việt ngữ do Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch từ Tạng Pali, và bản A-Hàm Việt ngữ do hai Hòa Thượng Tuệ Sỹ và Thích Đức Thắng dịch từ Hán Tạng.
13/02/2022(Xem: 3500)
Gần đây khi nhận được những tập kỷ yếu về các chuyến hành hương (từ các địa điểm tâm linh) gửi tặng từ TT Thích Nguyên Tạng, một lần nữa tôi mới chợt nhận ra tại sao một người tu hay bất cứ một người phàm phu nào cũng cần phải cầu nguyện cho mình có đủ Tam Phước ( Phước vật - Phước đức và Phước Trí ). Trộm nghĩ khi có đủ tam phước rồi thì làm việc gì cũng thành tựu vì đã sử dụng đúng thái độ và cách cư xử của ta trong cuộc sống . Và hạnh phúc là mục đích chính của con người, tiêu biểu cho sự phát triển đầy đủ các đức tính đạo đức của con người ...Nhất là trong Triết lý Phật giáo, hạnh phúc là chủ đề rất quan trọng nghĩa là muốn có hạnh phúc thì phải có bình an ( vật chất lẫn tinh thần ) và nhất định là hạnh phúc này phải phát xuất từ giá trị cuộc sống với sự hoàn thiện nhân cách và luôn giữ 3 nghiệp thân, khẩu, ý thanh tịnh.
13/02/2022(Xem: 6256)
Hiện nay chúng ta đang có 2 cách tính thời gian theo : Âm Lịch và Dương Lịch. Phương Tây và nhiều nước trên thế giới sử dụng Dương Lịch, lịch này tính theo chu kỳ tự quay xung quanh trục mình của Trái Đất và Trái Đất quay xung quanh mặt trời. Trong khi đó cách tính Âm Lịch sử dụng Can Chi, bao gồm thập Can và thập nhị Chi. Trong đó, 10 Can gồm: Canh, Tân, Nhâm, Quý, Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ được tạo thành từ Ngũ hành Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ. 12 Chi được lựa chọn từ các con vật gần gũi với con người hoặc thuần dưỡng sớm nhất. Có một sự khác nhau trong 12 Chi giữa Âm Lịch Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam,.... đó là Chi thứ 4 là con Mèo hay con Thỏ. Ở Việt Nam, 12 con giáp gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi, tương ứng với 12 con vật : Chuột, Trâu, Hổ, Mèo, Rồng, Rắn, Ngựa, Dê, Khỉ, Gà, Chó, Lợn. Khi ghép lại sẽ tạo thành 60 năm (bội số chung nhỏ nhất của 10 và 12) từ các tổ hợp Can - Chi khác nhau, gọi chung là Lục Thập Hoa Giáp.
31/01/2022(Xem: 5894)
Truyện này viết về một người anh, và nhiều phần là hư cấu. Nghĩa là, chỉ một phần có thực. Nhưng tôi không thể nào nói rõ là phần nào thực, phần nào hư. Nói rõ có khi lại hỏng. Đã viết truyện thì, chẳng tác giả nào nói rõ đâu. Ngay như nhan đề “Bên Trời Đại Lý” cũng thấy là bên kia sự thật rồi, vì Việt Nam mình làm gì có thị trấn Đại Lý, nơi sẽ là bối cảnh của truyện ngắn này. Nhưng, nếu nói thiệt ra là Chợ Lớn, thì lại trần gian quá, chẳng thơ mộng tí nào.
05/01/2022(Xem: 7848)
Khi khoa học ngày càng phát triển, con người càng rời xa tâm linh và phủ nhận tất cả những gì không dựa trên nền tảng khoa học. Tuy nhiên, thế giới tâm linh dù được khẳng định bởi người hữu duyên hoặc phủ nhận bởi người chưa đủ duyên tồn tại song song với thế giới vật chất. Sự nối kết tâm linh là một đề tài sôi nổi trong dòng chính cũng như trong cộng đồng tôn giáo. Trên thực tế, hiện tượng siêu nhiên vẫn là những điều huyền bí mà không phải bất kỳ ai cũng có thể trải nghiệm hay giải mã. Vì vậy, người có khả năng nối kết với thế giới tâm linh và cảm nhận được hiện tượng tâm linh càng trở nên đặc biệt dưới các trường hợp sau đây:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]